Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Dàn Ý &Amp; 5 Mẫu Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám
Dàn ý thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử GiámI. Mở bài
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hằng năm vào ngày rằm tháng giêng.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, xuất xứ
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông.
Năm 1076. Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.
Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ..
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành.
Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442 trở đi (chủ trương đã đề ra năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mỗi khoa, một tấm bia đặt trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đã tổ chức được 12 khoa thi cao cấp) Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã tổ chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi).
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo giáo dục cao cấp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế.
Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây dựng Khuê Văn Các, với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
2. Kết cấu
Nhà Thái học có ba gian, có tường nang, lợp bằng ngói đồng.
Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian.
Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.
Khuôn viên được bao bọc bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng Khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh.
Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Mòn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Mòn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805).
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời).
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toả trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá huỷ. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử).
Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa.
Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hoà giữa trời và đất. giữa hai thái cực âm – dương.
3. Ý nghĩa
Là hình ảnh tiêu biểu của Hà Nội.
Là nơi tượng trưng cho truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài
Vào tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ triều Lê – Mạc tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ lại tiếp tục được công nhận là Di sản tư liệu thế giới trên phạm vi toàn cầu.
Di tích làm rạng rỡ văn hóa, lịch sử sâu rộng của dân tộc Việt Nam; tôn vinh nền văn hóa, nền giáo dục, truyền thống hiếu học, hiếu nghĩa, tôn sư trọng đạo, quý đức, quý tài của dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 1Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những di tích lịch sử quan trọng bậc nhất của Quốc gia. Đây được xem là trường đại học đầu tiên của Việt nam lưu giữ và tôn vinh những học giả tài trí của dân tộc. Với bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, Quốc Tử giám được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962 và cho đến nay, đây vẫn luôn là một điểm thu hút nhiều khách du lịch không thể bỏ qua khi tới thăm thủ đô Hà Nội.
“Năm canh tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 đời lý thánh tông, mùa thu tháng 8 làm văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây”. Từ nền tảng đó, Văn miếu Quốc tử giám tiếp tục trùng tu và xây dựng cho đến ngày 13/7/1999, khi thành Phố Hà Nội khởi công xây dựng công trình nhà thái học trong khu Văn Miếu quốc tử giám. Nơi đây đã cho ra đời rất nhiều nhân tài của đất nước. Trải qua bao nhiêu năm, vô vàn các bia gạch đá tiến sĩ đã được xây dựng nhằm tôn vinh, tưởng nhớ các nhân tài.
Di tích lịch sử Văn Miếu có diện tích 54.331m2 gồm: Hồ Văn, vườn giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Phía trước cổng lớn là tứ trụ, hai bên tứ trụ có hai bia “Hạ mã”. Nội tự được chia làm năm khu vực, mỗi khu vực được phân chia nhằm dựng bia và thờ bài vị của các học giả tài ba khắp cả nước. Khi du khách tới tham quan khu bia đá, chúng ta có thể tìm thấy tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong các sách sử Việt nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên- Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư hay nhà bác học Lế Qúy Đôn,…
Thông qua các tấm bia, chúng ta không chỉ được mở mang hiểu biết về thân thế sự nghiệp của các sử thần Việt nam, ta còn được biết thêm về mối quan hệ bang giao giữa các nước khu vực Đông Nam á. Đây được xem là những tác phẩm vô giá, góp phần làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của Việt nam. Cho đến nay, phần lớn các hoa văn và văn tự trên bia đá còn rõ nét. Chữ viết và phong cách trang trí của mỗi dáng bia, đầu rùa đều mang dấu ấn thời đại tạo nên chúng.
Nổi bật trong khuôn viên Quốc Tử giám là chiếc chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, mang nhiều giá trị lịch sử lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ xương, mặt ngoài khắc bài mình viết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng của chiếc chuông.
Văn Miếu Quốc tử giám luôn đề cao “nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “phải có đào tạo sau mới có nhân tài”. Vì thế nơi đây là chiếc nôi nuôi dưỡng rất nhiều tài năng được trọng dụng qua thời nhà Lê, Mạc, Nguyễn…Điều này tạo nên một tập tục của người Việt, trước khi đi thi đều tìm đến nơi đây để cầu mong được may mắn và tịnh tâm, để đạt được thành tích tốt trong các cuộc thi.
Một sự kiện nổi bật về di tích này chính là đã được UNESCO công nhận bia tiến sĩ văn miếu- quốc tử giám là di sản tư liệu quốc tế. Đây là niềm tự hào của toàn thể dân tộc Việt Nam, và của lịch sử phát triển loài người nói chung.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 2Cổng vào Văn Miếu Quốc Tử Giám
Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, Hà Nội vẫn lưu giữ trong lòng nó những ” dấu xưa oai hùng” cùng với những danh lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây còn là nơi thờ các danh nhân có công trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố đông vui, nhưng không vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331 m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám.
Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có gò Kim Châu. Cảnh trí rất yên bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng thẳng trước giờ thi.
Khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và không gian bên ngoài bằng tường gạch vồ, không trát bên ngoài và có bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Môn, vào khu Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái. Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp. Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ.
Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái.
Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính dựng thành hai khu Đông và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ông cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng ngàn mét vuông, lát gạch Bát Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo. Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian chính của Thượng điện đặt các lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm cho khách tham quan.
Sau Thượng điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử.
Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là công trình hoàn toàn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 – 7 – 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long và nền giáo dục Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tôn thờ các danh nhân đã có công xây dựng Văn Miếu – Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lê Thánh Tông.
Bên ngoài Hậu đường, còn có nhà chuông, lưu giữ chuông Bích Ung được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ.
So với trường đại học Bologna ở Italia – ngôi trường đại học cổ nhất còn tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vòm ở các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo, Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thông qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua”. Và việc xin chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội.
Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa, khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Và là khu di tích văn hoá Hà Thành.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 3Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý.
Là tổ hợp gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.
Về lịch sử:
Văn Miếu được xây dựng từ “tháng 8 năm Canh Tuất (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông, đắp tượng Chu Công, Khổng Tử và Tứ phối vẽ tranh tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến đấy học.”.
Bia tiến sĩ khoa thi nho học năm Nhâm Tuất (1442) Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử giám, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Năm 1156, Lý Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.
Từ năm 1253, vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử giám và thu nhận cả con cái các nhà thường dân có sức học xuất sắc.
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ của những người thi đỗ tiến sĩ từ khóa thi 1442 trở đi.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Tử Giám – cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình. Năm 1785 đổi thành nhà Thái học.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử giám lập tại Huế. Năm 1802, vua Gia Long ấn định đây là Văn Miếu – Hà Nội và cho xây thêm Khuê Văn Các. Trường Giám cũ ở phía sau Văn Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá. Ngày nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng thời với quần thể các công trình còn lại
Về kiến trúc:
Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các (do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang tất cả những tinh tú của bầu trời tỏa xuống trái đất và trái đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm nơi thưởng thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là 2 khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779, chia đều cho hai khu tả và hữu. Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm 1442-1514) được dựng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa 1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cuối cùng (các khoa thi những năm 1554-1779) được dựng vào thời Lê trung hưng. Mỗi khu nhà bia gồm có 1 Bi đình nằm ở chính giữa và 4 nhà bia (mỗi nhà 10 bia) xếp thành hai hàng, nằm hai bên Bi đình. Bi đình khu bên trái Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bi đình khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa ngoài nhà là Bái đường, tòa trong là Thượng cung.
Khu thứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Ở điện thờ Khổng Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt nam. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu…, hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm – dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
Ngày nay, Khuê Văn Các ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 4Văn miếu Quốc Tử Giám là một trong những địa điểm thu hút du khách bậc nhất của Hà Nội, nơi đây cũng chính là chứng nhân lịch sử cho nền văn hóa nho học, đã đào tạo ra vô số nhân tài cho đất nước từ thuở thành lập, được xem là ngôi trường đại học chính quy đầu tiên của Việt Nam. Quốc Tử Giám chính là minh chứng cho quyết tâm nâng cao học thức nhân dân, phát triển nền giáo dục nước nhà lên đến đỉnh cao của vua Lý Nhân Tông, và quả thực ông đã thành công, khi lịch sử đã đánh giá triều Lý là triều đại có nền giáo dục phát triển mạnh mẽ nhất. Với lối kiến trúc độc đáo và bề dày lịch sử gắn liền với sự hưng thịnh phát triển của nhiều triều đại, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã mang đến trong trái tim nhiều người sự trân trọng và ngưỡng mộ vô cùng.
Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 dưới thời vua Lê Thánh Tông, còn Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng cùng thời sau đó vào năm 1076, ngay bên cạnh Văn Miếu. Quần thể di tích này tọa lạc tại phía Nam kinh thành Thăng Long, thuộc quận Đống Đa, thủ đô Hà Nội. Công trình có tổng diện tích là 5433 m, bốn phía được bao quanh bởi các tuyến phố chính của quận, hướng Nam là cổng chính giáp với phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Đông giáp với phố Văn Miếu.
Văn Miếu trong những năm đầu mới xây dựng thì đóng vai trò là nơi thờ cúng các bậc tiên thánh người đã khai sinh ra nho học, đồng thời là trường học hoàng gia đầu tiên của Đại Việt mà học sinh đầu tiên là thái tử Lý Càn Đức sau là vua Lý Nhân Tông. Sau khi Quốc Tử Giám hoàn thiện thì khu di tích này chính thức trở thành trường đại học đầu tiên của Việt Nam, ban đầu chỉ dành cho con cái nhà quyền quý, sau mở cửa cho cả con em thường dân nhưng có tài trí hơn người đến học. Ngày nay Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã trở thành khu di tích lịch sử nằm trong danh sách 23 Di tích Quốc gia đặc biệt, là chứng minh cho sự phát triển của nền giáo dục của nước ta dưới chế độ phong kiến, đồng thời là địa điểm du lịch hấp dẫn đối với nhiều du khách. Nơi đây cũng lưu giữ lại những tư liệu lịch sử quý giá, những nét kiến trúc độc đáo, cùng với những dấu vết về một thời thịnh trị của Nho giáo tại Việt Nam.
Quần thể khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám chính là đại diện cho truyền thống hiếu học, lễ nghĩa, tôn sư trọng đạo, đề cao nhân tài với những giá trị tinh thần, văn hóa vô cùng sâu sắc và quý giá, là biểu tượng của cả đất nước. Chính vì vậy mỗi chúng ta cần có ý thức giữ gìn, bảo tồn khu di tích để không chỉ hôm nay mà con cháu chúng ta ngày sau có thể ý thức được và kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp này.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám – Mẫu 5Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.
Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Con Lợn (Dàn Ý + 6 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất Lớp 8
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu đối tượng thuyết minh: con lợn (theo cách gọi miền Bắc) hoặc con heo (theo cách gọi miền Nam).
II. Thân bài
1. Nguồn gốc
– Có nguồn gốc từ lục địa Á – Âu.
– Lợn nhà ngày nay xuất phát từ lợn rừng được thuần hóa.
2. Đặc điểm
– Hình dáng đặc trưng:
Có bốn chân, chân thấp, có móng guốc
Toàn thân phủ một lớp lông cứng bên ngoài
Có mõm to, mũi to.
Hai tai to và vểnh.
– Tập tính vốn có của lợn (heo):
Là loài ăn tạp.
Có khứu giác phát triển, thích đào, bới.
Thích sống nơi râm mát, ẩm ướt.
Sinh nhiều con, nhiều lứa.
3. Vai trò trong cuộc sống
– Một số giống lợn được nuôi làm kiểng, thú cưng.
– Cung cấp thịt, da làm thực phẩm.
– Dùng để trao đổi, mua bán tăng nguồn thu nhập cho người chăn nuôi.
– Lợn và thịt lợn thường được dùng trong các buổi lễ, tế, thờ cúng.
– Lợn còn là nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật (nó xuất hiện trong thơ ca, mỹ thuật, văn học…)
III. Kết bài
– Khẳng định lại vai trò của lợn đối với cuộc sống con người và cảm nhận của em đối với con vần vô cùng quen thuộc và có ích này.
Cuộc sống của con người sẽ trôi đi tẻ nhạt và buồn chán biết bao nếu như không có những con vật để bầu bạn. Nếu như những chú mèo nhỏ xinh là con vật cưng của nhiều người, chú chó là người canh dữ dũng cảm, thì chú lợn hiền lành và đáng yêu luôn đem lại cho người ta những giây phút thư giãn và yêu đời.
Lợn đã trở thành một con vật nuôi quen thuộc với con người, đặc biệt là những người nông dân. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng rồi đem về nuôi. Dần dần con người ý thức và chọn lựa những con lợn tốt để nuôi còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, nhiều nghiên cứu cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.
Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở châu Á và châu Âu có tới bốn giống lợn chính và hai mươi lăm giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành ba giống lợn phụ của châu Á là Sus orientalis, Sus vitatus, một giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn rừng và lợn hoang dã cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là giống lợn thích nghi như các động vật bán thủy sinh.
Lợn thuộc vào thứ có guốc. Kích cỡ và hình dạng của lợn thường thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân lợn có thể dài đến 190.500mm, đuôi dài từ 35 – 450mm. Lợn trưởng thành cơ thể nặng tới 350kg. Mắt của chúng nhỏ và dẹt, nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống với một nhúm lông nằm gần đầu mút. Hộp sọ của lợn thường dài và có một điểm chấm khá bằng phẳng. Mũi của lợn to bằng bàn tay nắm lại và khá linh động. Cả bốn chân của lợn đều có móng nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa. Những chú lợn khoác lên mình bộ áo màu trắng phớt hồng, điểm xuyết một vài chiếc lông trắng.
Lợn được nuôi để lấy thịt có chất lượng thịt thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỉ lệ mỡ cao trong thân thịt. Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn, giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Ngoài ra thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao, ổn định trên thị trường. Lợn có rất nhiều đóng góp giá trị cho đời sống của con người. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người. Da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ. Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hun khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con người.
Sau khi được thuần hóa, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới. Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân.
Lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hoá độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội họa, sách vở. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các truyện ngụ ngôn.
Những con lợn đem lại nguồn lợi không hề nhỏ cho người dân và mang những giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, ta cần chăm sóc và yêu quý loài vật này.
Từ xa xưa, lợn là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam, nó là nét đặc trưng của vùng quê lam lũ, một con vật hiền lành và được nuôi phổ biến trong những hộ gia đình. Nó đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó.
Trong ngành chăn nuôi gia súc, lợn là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi như: lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng có thân màu đen, hoặc đen khoang trắng, lông chúng thưa, mõm ngắn, bụng sệ khiến lưng của chúng cũng võng xuống theo, có bốn chân nhỏ và thấp chính vì thế mà chúng di chuyển khá chậm chạp, ì ạch và nặng nhọc. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60 – 70 ki-lô-gam. Khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoắc tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.
Lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối. Chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ, đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ, chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng, dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung. Trong các gia đình nông thôn, thường hộ nuôi hai lứa lợn, mỗi lứa dăm chục con, không chỉ nuôi lấy thịt, phân của chúng còn được tận dụng bón cho cây trồng.
Ngoài lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc như : lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ, mõm dài,lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán.
Hiện nay, khi Việt Nam càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới, quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân. Ví dụ như giống lợn của nước Anh, chúng có thân trắng hồng, lông mượt, đầu nhỏ và hai tai dựng, thân dài bụng thon gọn và bốn chân cao. Trọng lượng của một con lợn trưởng thành có thể lên tới 100 ki lô, cơ thể khá săn chắc do quy cách chăn nuôi được nâng cao và đổi mới. Giống lợn này hiện nay hầu như đáp ứng nhu cầu của mọi người tiêu dùng trên thị trường, Từ thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như: Thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng… Hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết… Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam.
Lợn là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người, gắn bó thân thiết với người nông dân, với xóm làng, vườn tược và quê hương Việt Nam.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao nhiêu con vật có ích như trâu, chó, gà, bò… thế nhưng chúng ta cũng không thể nào không nhắc đến con lợn. Có thể nói lợn là một con vật rất gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Nó không chỉ là một con vật nuôi cung cấp nguồn thực phẩm cho con người mà nó còn có nhiều vai trò khác nữa.
Trước hết là về đặc điểm ngoại hình, lợn thường có da màu khoang trắng đen hoặc màu trắng. Lợn khi còn bé thì có màu hồng nhạt rất dễ thương và đáng yêu. Bụng của chúng rất là to cái đuôi thì xoắn vào, bốn cái chân ngắn, móng to. Lông thường rất thưa và dài có màu trắng. Đôi mắt của nó thì rất tròn to đen lắm. Cái miệng mà người ta hay gọi là mõm thì dài khi ăn thức ăn thì nó sục mõm cho nước rơi vào cả mũi nhưng vẫn ăn được. Tiếp đến, về thức ăn thì lợn là một con vật ăn tạp và thức ăn chủ yêu của nó là cái loại rau xanh và cám, gạo, cám ngô. Người thường cho nó ăn vào một cái máng dài. Về phân loại thì lợn được chia ra làm hai loại lợn cơ bản đó là lợn sề và lợn cỏ. Lợn sề có màu khoang trắng đen kích cỡ to hơn và thịt thường dai hơn thịt lợn bình thường không tạo nên sự hấp dẫn cho con người. Chính vì thế mà trên thị trường thịt lợn sề bao giờ cũng rẻ hơn thịt lợn bình thường. Những con lợn khác thì có màu trắng bình thường. Về sinh sản thì mỗi một lứa lợn sẽ đẻ ra gần mười con lợn con. Khi mới đẻ những con lợn ấy phải được tiến hành bẻ răng nanh không thì sẽ cắn mẹ nó khi bú. Lợn con sinh ra màu hồng hào trông rất đẹp và sạch sẽ.
Không chỉ thế lợn là một con vật có ích bởi vì nó có công dụng rất lớn trong đời sống của chúng ta. Thứ nhất là trong kinh tế và đời sống thực phẩm hàng ngày. Ngày nay chúng ta đi ra chợ món thịt lợn là món mà mọi người thường hay mua nhiều nhất. Chính bởi thịt lợn rất ngon và dễ ăn số lượng lại nhiều nên giá cả phải chăng khiến cho nhà ai cũng có thể ăn chứ không như thịt bò đắt. Vậy nên những người nhà không có điều kiện cũng có thể mua về ăn trong bữa cơm hàng ngày. Còn những người bán hàng thì lại có thu nhập đều đều.
Trong đời sống thì chúng ta có thể thấy được đó là thịt lợn có thể chế biến thành nhiều món ngon đẹp mắt như: thịt kho tàu, thịt rang, thịt xào xả ớt, thịt băm… Nói tóm lại lợn cung cấp thực phẩm cần thiết cho con người.
Vai trò thứ hai đó là lợn trở thành nhiều biểu tượng cho con người và còn trở thành cả biểu tượng nghệ thuật. Lợn vô cùng may mắn khi lọt vào top mười hai con giáp để chỉ cho số phận con người. Những người sinh năm lợn được người ta phán rằng có một cuộc sống sung sướng bởi dựa theo đặc tính của con vật này thì cả ngày chỉ có ăn với nằm mà thôi. Đói thì lại kêu no thì lại ngủ. Vì thế những người sinh năm hợi đều mang số phận sướng. Không những thế mà hẳn những con người Việt nam chúng ta không quên được hình ảnh của những bức tranh Đông Hồ với đàn lợn dưới hình một cây khoai nước. Đó là nghệ thuật của nước ta mà cụ thể là ở Bắc Ninh.
Như vậy có thể thấy được vai trò và những đặc điểm cơ bản của con lợn trong cuộc sống của con người chúng ta. Có lẽ chính vì những vai trò to lớn từ vật chất cho đến tinh thần ấy đã khiến cho lợn trở thành một con vật có ích.
Trong cuộc sống, mỗi con vật lại mang những ý nghĩa và vai trò riêng biệt trong cuộc sống của con người. Nếu như con gà như chiếc đồng hồ báo thức mỗi sớm mai giúp mọi người tỉnh giấc, con mèo lại giúp mọi người bắt chuột để nó không phá phách, thì con lợn lại đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó.
Lợn được thuần hóa từ lợn rừng. Trước đây, các nhà khảo cổ học dựa vào những di chỉ khảo cổ đã cho rằng lợn được thuần hóa vào khoảng 9000 năm về trước ở vùng mà ngày nay thuộc miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ hoặc cùng khoảng thời gian này tại Trung Quốc. Ở một số nước phát triển và đang phát triển, lợn thuần hóa là loài bản địa thường được nuôi thả ngoài trời hoặc trong chuồng. Ở các quốc gia công nghiệp nuôi lợn thuần hóa được chuyển từ việc nuôi chuồng trại truyền thống sang hình thức nuôi công nghiệp. Cho đến ngày này, lợn càng ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở thành con vật nuôi quen thuộc trong mỗi gia đình làng quê Việt Nam. Ở Việt Nam ngày nay có rất nhiều giống lợn phổ biến như lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Toàn thân màu đen, chân ngắn, bụng sệ khiến cho lưng lúc nào cũng võng xuống trông rất nặng nề khó di chuyển. Lợn ỉ sau bảy, tám tháng nuôi, lúc trưởng thành nặng khoảng sáu, bảy mươi ki lô gam. Mỗi lứa lợn có thể đẻ tới hàng chục con. Mỗi con sinh ra nhỏ nhắn khoảng ba, bốn ki lô gam, thường có màu hồng trông rất đẹp. Những con lợn nằm thành từng đàn nung núc vây quanh mẹ. Đôi mắt lợn tròn, to đen, cái miệng dài khi ăn thức ăn thì nó sục vào máng húp tạo ra tiếng kêu rất to.
Lợn là một con vật rất dễ nuôi, chúng thường ăn bèo cái, cám lỏng hay khoai thái nhỏ nấu với cám. Các loại rau ăn sống là rau lang, rau muống hoặc cây chuối băm nhỏ. Người ta thường nói rằng con lợn rất lười, chỉ có ăn xong rồi nằm ườn ra chả làm việc gì cả có lẽ bởi chúng không có những đặc điểm giống như những loài động vật khác. Lợn có vai trò rất to lớn trong cuộc sống của con người. Lợn là một con vật gần gũi và thân thiết với con người, nó như người bạn chia sẻ những niềm vui nỗi buồn trong cuộc sống. Thịt lợn ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng , dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung, Từ thịt lợn, người ta có thể chế biến ra các loại thức ăn ngon và bổ. Trong bữa cơm hằng ngày của mọi gia đình, không thể thiếu thịt lợn. Thịt lợn người ta còn dùng để làm những loại bánh ngon, nổi tiếng. Các sản phẩm khác từ thịt lợn như xúc xích, lạp xưởng. Đầu lợn có thể được dùng làm dưa da đầu lợn. Không chỉ lấy thịt mà người ta còn dùng phân của lợn làm phân bón cho cây trồng rất tốt. Không những thế lợn cũng mang thế giới tâm linh bởi vì nó nằm trong 12 con giáp mà người Việt Nam cũng như người phương Đông dùng để tính tuổi, tính năm. Đối với người Việt Nam và Trung Quốc, lợn được nhân cách hóa qua nhân vật hư cấu nửa người nửa lợn Trư Bát Giới, một vị thần trên Thiên đình, trong truyện nổi tiếng Tây Du Ký. Đối với Việt Nam, dù được xem là biểu tượng của sự may mắn và trù phú như thế, con lợn trong dân gian Việt Nam mang nhiều hình tượng tiêu cực bởi người ta nghĩ đến sự lười biếng của chúng. Hiện nay cũng xuất hiện rất nhiều dịch bệnh nên mọi người cần có cách chăm sóc và đề phòng đúng cách, tránh để vật nuôi mắc bệnh sẽ làm cho kinh tế giảm sút. Hãy dọn dẹp chuồng trại vệ sinh sạch sẽ, khô ráo thoáng mát, cho ăn đúng cách.
Đã từ lâu thì lợn đã được biết đến chính là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam ta. Con lợn cũng đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó và giúp người dân vượt khó đi lên.
Có thể thấy được ở trong ngành chăn nuôi gia súc thì lợn luôn luôn được biết đến chính là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ngay ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi có thể kể tên ra đó chính là giống lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Và trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, và nó được phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Toàn phần thân của chúng có màu đen hoặc có khi là đen khoang trắng, lông thưa, phần mõm ngắn và có các bụng sệ xuống khiến cho lưng của chúng cũng bị võng xuống theo. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60 – 70 ki lô-gam trên một con. Rồi khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoặc có thể tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Cứ mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.
Không thể phủ nhận được rằng lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối cũng được. Loài lợn chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ, có thể thấy được với đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ mà thôi. Loài lợn chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thêm với đó thì phần thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và ngay cả phần da của chúng cũng rất mỏng nên được nhiều người ưa chuộng trên thị trường hiện nay. Thịt lợn dần dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung nữa.
Không chỉ có lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc có thể kể tên ra đó chính là thịt lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Loài lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ có phần mõm dài, lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Thế rồi khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán.
Advertisement
Hiện nay khi Việt Nam chúng ta ngày càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, đã xuất hiện thêm nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới. Đồng thời kéo theo quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân Việt Nam.
Từ chính phần thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như thành các món như món thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng. Và hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết. Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam.
Tóm lại lợn còn chính là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người, gắn bó thân thiết với người nông dân, gắn bó với xóm làng, vườn tược, quê hương Việt Nam chúng ta.
Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp phát triển, vậy nên con lợn đã trở thành một con vật quen thuộc, đặc biệt là đối với những người nông dân.
Lợn nhà là loài có nguồn gốc từ lợn rừng, những bằng chứng khảo cổ cho thấy loài lợn này đã tồn tại từ rất sớm khoảng những năm 13.000 – 12.700 TCN ở vùng Cận Đông, thung lũng Tigris. Và theo những nghiên cứu gần đây nhất, người ta đã thống nhất rằng loài lợn nhà có nguồn gốc từ loài lợn rừng bản địa của vùng Đông Nam Á, sau nhiều năm được thuần hóa chúng bắt đầu được con người đưa sang các vùng đất khác như châu u, Cận Đông và các đảo ở Thái Bình Dương để nuôi lấy thịt và trở thành loài gia súc phổ biến nhất trong nông nghiệp. Lợn nhà có tên khoa học là Sus scrofa domesticus thuộc họ Lợn (Suidae).
Xét về đặc điểm ngoại hình, một con lợn nhà có hình dáng thấp, thân tròn, lông thưa và ngắn. Tùy theo những giống lợn khác nhau mà da có màu khác nhau. Có thể ví dụ như lợn Móng Cái nổi bật với vùng da đen hình yên ngựa trên lưng. Còn lợn Ỉ thì cả da và lông đều đen bóng. Điểm đặc biệt nhất của lợn chính là khuôn mũi tròn, với hai lỗ mũi, khá nhạy cảm. Đặc điểm này hình thành là do tập tính dùng mũi ủi, dũi đất để tìm thức ăn từ xa xưa của loài này. Đa số số các giống lợn có tai dài, phẳng, mắt có thị lực kém, chân ngắn có móng cứng chẻ làm ba. Một con lợn trưởng thành có kích thước khoảng 60cm, nặng từ 130 – 350 kg tùy loài, tuổi thọ dao động từ 12 – 17 năm.
Tiếp đến là về tính sinh hoạt, lợn là loài ăn tạp. Thức ăn của nó gồm cả động và thực vật. Chúng dùng cái mũi nhạy và khỏe cùng bốn chân để ủi và đào bới tìm kiếm thức ăn. Do lông thưa ngắn, lại không có tuyến mồ hôi nên chúng thích đắm mình trong các vũng bùn để bảo vệ cơ thể. Ngày nay mặc dù được nuôi dưỡng trong điều kiện mát mẻ, sạch sẽ nhưng những tập tính này vẫn chưa từng bị mất đi. Lợn cũng là loài có khả năng chịu đựng những điều kiện sống kham khổ và có tính thích nghi mạnh mẽ với nhiều điều kiện khí hậu thổ nhưỡng, vì vậy nên nó có địa bàn phân bố rộng khắp trên thế giới, và trở thành một trong những loài gia súc phổ biến nhất. Một trong những đặc tính đặc biệt nữa là lợn có khả năng sinh sản nhanh và rất mắn đẻ, một năm lợn có thể mang thai hai lứa mỗi lứa đẻ có thể sinh ra từ 10 – 15 con.
Ở Việt Nam, có rất nhiều trang trại nuôi lợn. Chúng được nuôi với nhiệm vụ chủ yếu nhất của lợn là nuôi để lấy thịt. Hiện nay trên thế giới việc nuôi lợn đã sớm phát triển thành một ngành công nghiệp có giá trị cao. Thịt và nội tạng lợn có thể dùng chế biến những món ăn thơm ngon như xúc xích, lạp xưởng, chả giò… rất được con người ưa chuộng. Da lợn có thể dùng trong kỹ nghệ làm bóng, lông thì dùng làm bàn chải. Trong y học, da lợn còn được sử dụng để cấy ghép thay thế cho vùng da bị hủy hoại của con người (bỏng) bởi những tương đồng trong cấu trúc, ngoài ra lợn cũng được nuôi để tiến hành các thử nghiệm lâm sàng, thử tác dụng của thuốc mới. Ông cha ta có câu: “Ngu như lợn”, nhưng thực ra không phải vậy, chúng là một loài rất thông minh, dễ huấn luyện, điều này được áp dụng trong việc dùng lợn để tìm kiếm và khai thác nấm cục ở Châu u, ngoài ra những giống lợn nhỏ, xinh còn được con người nuôi làm thú cưng.
Tóm lại, lợn là một giống vật nuôi phổ biến ở nhiều nơi. Chúng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người.
Văn Mẫu Lớp 9: Dàn Ý Thuyết Minh Về Con Trâu (6 Mẫu) Lập Dàn Ý Thuyết Minh Về Con Trâu
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 11. Mở bài
Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
2. Thân bài
a. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm… Trung bình một con trâu có khối lượng từ 200 – 800 kg
Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
b. Lợi ích của con trâu
Trong đời sống vật chất: Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo. Trâu cũng là tài sản quý giá của nhà nông. Ngoài ra, trâu còn cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mĩ nghệ…
Trong đời sống tinh thần: Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu… Con trâu với lễ hội ở Việt Nam: Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng; Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên; là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam…
Trâu gắn bó sâu nặng và vô cùng thân thiết đối với con người Việt Nam từ xưa, bây giờ và cả sau này.
3. Kết bài
Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam; đồng thời nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 2I. Mở bài
Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
2. Lợi ích của con trâu:
a. Trong đời sống vật chất:
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.
Là tài sản quý giá của nhà nông.
Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…
b. Trong đời sống tinh thần:
– Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
– Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
III. Kết bài
Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 3I. Mở bài: giới thiệu về con trâu Việt Nam
Con trâu gắn liền với người nông dân Việt Nam từ xa xưa, bao đời nay. Con trâu như một người bạn thân thiết với người nông dân Việt Nam. Chính vì thế mà con trâu đi vào thơ ca Việt Nam rất đỗi tự nhiên. Để biết rõ hơn về con trâu thân thiết với người nông dân như thế nào, chúng ta cùng đi tìm hiểu con trâu Việt Nam.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc của con trâu
Con trâu Việt Nam là thuộc trâu đầm lầy
Con trâu Việt Nam là trâu được thuần hóa
2. Đặc điểm của con trâu Việt Nam
Trâu là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen
Trâu có thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dóc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
Trâu có sừng
Trâu rất có ích với người nông dân Việt Nam
Mỗi năm trâu đẻ một lứa và mỗi lứa một con
3. Lợi ích của con trâu Việt Nam
a. Trong đời sống vật chất thường ngày
Trâu giúp người nông dân trong công việc đồng áng: cày, bừa,
Trâu là người gián tiếp là ra hạt lúa, hạt gạo
Trâu là một tài sản vô cùng quý giá đối với người nông dân
Trâu có thể lấy thịt
Da của trâu có thể làm đồ mỹ nghệ,…
b. Trong đời sống tinh thần
– Trâu là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam
– Trâu là tuổi thơ trong sáng, tươi đẹp của tuổi thơ: chăn trâu thổi sáo, cưỡi lưng trâu,…
– Trâu có trong các lễ hội ở Việt Nam:
Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
Là biểu tượng của SeaGames 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
…..
4. Tương lai của trâu
Những tác động khiến trâu mất đi giá trị của mình:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Máy móc kỹ thuật hiện đại: máy bừa, máy cày,….
Phát triển đô thị, quy hoạch hóa, xây dựng khu đô thị,….
III. Kết bài:
Khẳng định vai trò của con trâu ở làng quê Việt Nam
Nêu cảm nhận với ý nghĩ của mình về con trâu ở làng quê Việt Nam
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 41. Mở bài
Giới thiệu về con trâu
Hình ảnh thôn quê, xóm làng gắn liền với những con vật quen thuộc, gần gũi
Con trâu mang lại nhiều giá trị với người nông dân và với nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam.
2. Thân bài
2.1. Nguồn gốc
Tiến hóa từ trâu rừng
Được người dân thuần chủng trở thành trâu như ngày nay
Trâu Việt Nam thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bộ nhai lại, họ bò.
Theo truyện dân gian, trâu từng là vị thần trên trời do vô tình gây nên nạn đói nhân gian bị Thượng Đế phạt làm trâu.
2.2. Tập tính
Trâu thường sống theo bầy đàn
Khi ăn, chúng có thói quen nhai lại thức ăn.
Trâu thích đến các nơi đầm lầy, ao bùn.
Trâu mới sinh được gọi là nghé, chưa có sừng.
Nghé phát triển khá nhanh, sau 2 tuần sinh nghé có thể đứng, đi chập chững, sừng bắt đầu nhú.
Khoảng 2 – 3 tháng, nghé bước vào giai đoạn trâu trưởng thành và dần hoàn thiện các bộ phận trâu.
2.3. Chủng loại
Trâu Việt Nam phổ biến với hai loại trâu: Trâu trắng và trâu đen được phân loại dựa vào màu sắc lông
Trâu trắng: Bộ lông màu trắng, biểu tượng sự may mắn
Trâu đen: phổ biến nhất tại Việt Nam, lông màu đen
2.4. Đặc điểm
Trâu đực và trâu cái có những đặc điểm khác nhau nhất định
Lông trâu ngắn, có màu trắng hoặc xám đen.
Da trâu cứng cáp
Bốn chân thấp, guốc chẵn
Thân hình trâu chắc nịch, khỏe khoắn
Đuôi dài linh hoạt, phe phẩy đuổi ruồi muỗi.
Trên đầu có cặp sừng cong, dài và phát triển hơn so với bò.
Trâu không có hàm trên.
Sữa trâu lỏng, chứa ít dinh dưỡng
2.5. Giá trị
– Giá trị sử dụng:
Trâu ra đồng với người nông dân
Trâu chở đồ, kéo xe
Thịt trâu mang lại nguồn lợi kinh tế
Da trâu làm đồ thời trang, mỹ nghệ
– Giá trị tinh thần:
Trâu là người bạn gần gũi, thân thuộc với người nông dân, là người đồng hành cùng trải qua
những nắng mưa, vất vả, những trưa hè nắng gắt bên cánh đồng
Các lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là nét văn hóa đẹp của người dân bản địa
Trâu trở thành biểu tượng thế vận hội Seagame lần thứ
3. Kết bài
Tương lai của con trâu
Hình tượng đẹp đẽ của con trâu trong đời sống hiện đại
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 5I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu sơ lược về con trâu (loài vật thân quen trên đồng ruộng, bạn của nhà nông, gắn bó với cơ nghiệp của người nông dân qua nhiều thế hệ,…).
II. Thân bài
Giới thiệu nguồn gốc:
Trâu ở nước ta thuộc nhóm trâu đầm lầy, xuất xứ từ trâu rừng được thuần hóa. Việc thuần hóa trâu rừng để dùng trong nông nghiệp đã được người Việt cổ thực hiện từ cách đây khoảng hơn 4000 năm.
Đặc điểm:
Động vật lớp thú.
Động vật nhai lại, có dạ dày 4 túi.
Thức ăn chủ yếu: các loại có xanh, rơm rạ,…
Ngoại hình: có 2 sừng dài nhọn, dáng sừng hình lưỡi liềm, thân hình to khỏe, da lông thường có màu xám hoặc đen, đầu to và ngắn,…
Khả năng sinh sản: kém, thông thường là 2 lứa/3 năm, mỗi lứa chỉ 1 con.
Tác dụng:
Cung cấp sức kéo dùng trong cày ruộng, kéo xe.
Cung cấp thịt dùng trong ẩm thực.
Da và sừng được dùng trong thủ công mỹ nghệ, sản xuất các sản phẩm thuộc da.
Ý nghĩa của con trâu trong đời sống người dân Việt Nam:
Là người bạn trung thành, thân thiết của nhà nông.
Là một trong những biểu tượng của nền nông nghiệp Việt Nam.
Làm nên những nét đặc sắc cho văn hóa nước nhà (các phong tục, lễ hội,…).
Khơi gợi nguồn cảm hứng vô tận cho văn học, thơ ca quê hương.
III. Kết bài
Tổng kết cảm nghĩ và nhận định cá nhân về con trâu (loài vật có ích, thân thuộc, đóng vai trò quan trọng…). Đưa ra lời khuyên, lời kêu gọi, quyết tâm bảo vệ, gìn giữ loài vật này.
Dàn ý thuyết minh về con trâu – Mẫu 61. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào hình ảnh con trâu.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của bản thân.
2. Thân bài
a. Khái quát chung về con trâu
Con trâu đã là biểu tượng của sự hiền lành, chăm chỉ, cần mẫn từ hàng ngàn năm nay.
Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa trâu, lợi dụng sức khỏe của trâu để phụ giúp trong việc đồng áng.
Advertisement
b. Thuyết minh chi tiết
Trâu không có hàm răng trên. Tấm thân của trâu rất chắc chắn, thân hình vạm vỡ nhưng thấp. Bụng to. Da của nó màu đen, rất dai nhưng được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài nên có cảm giác rất mượt mà. Mũi trâu lớn, miệng rộng, sừng có hình lưỡi liềm.
Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350 – 400 kg thì trâu đực nặng từ 400 – 450 kg.
c. Ý nghĩa, vai trò, hình ảnh của con trâu trong cuộc sống
Trâu là loài động vật rất khỏe và chịu khó, dù ngày nắng hay ngày mưa, dù có gian lao vất vả, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng không quản ngại gian lao.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo.
Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,.. Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
Trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ.
Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
3. Kết bài
Khái quát lại về hình ảnh con trâu.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Mũ Bảo Hiểm 3 Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Văn Hay Lớp 8
Mũ bảo hiểm cũng có nhiều hãng sản xuất, nhiều kiểu dáng, màu sắc khác nhau, nhưng chức năng chung là bảo vệ phần đầu của con người khi tham gia giao thông. Cách sử dụng mũ bảo hiểm vô cùng đơn giản, chỉ cần đội mũ lên và cài quai là được. Mời các em cùng theo dõi bài viết:
TOP 17 bài thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm
Dàn ý thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm (3 mẫu)
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm ngắn gọn (11 mẫu)
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm đầy đủ nhất (5 mẫu)
Thuyết minh về chiếc nón bảo hiểm
Dàn ý thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm Dàn ý chi tiết số 1I. Mở bài:
Nhịp sống của con người càng trở nên hối hả khi phương tiện giao thông ngày càng cải tiến, hiện đại.
Thực trạng tai nạn giao thông vẫn đe dọa tính mạng của con người, chiếc mũ bảo hiểm ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó với cuộc sống của con người.
II. Thân bài:
* Lịch sử của chiếc mũ bảo hiểm:
Mũ bảo hiểm xuất hiện từ ngàn năm trước, lúc đầu được làm bằng da rồi dần thay thế bằng kim loại bằng sắt được dùng cho binh lính trong các cuộc chiến tranh.
Vào khoảng năm 1200 thì mũ hoàn toàn làm bằng sắt với những hình dáng khác nhau bằng hình trụ hình chóp thẳng.
Thời trang cổ mũ được làm bằng thép nhẹ che được cả phần cổ.
Ngày nay thì người ta sử dụng chiếc mũ bảo hiểm rộng rãi trong cuộc sống chứ không đơn thuần là dùng để trang bị cho binh lính mà nó được làm bằng chất lượng nhựa siêu bền.
* Cấu tạo của chiếc mũ bảo hiểm gồm:
Lớp vỏ ngoài cùng: cứng được làm bằng nhựa siêu bền và thường được phủ một lớp bóng với nhiều màu sắc, kích thước hình dáng đa dạng, phong phú phù hợp với thị yếu người tiêu dùng.
Lớp lót bên trong thường được làm bằng vật liệu mềm xốp.
Quai có khóa cài chắc chắn để cố định mũ, ngoài ra mũ bảo hiểm có kính để che gió trong suốt phía trước có thể gập lên trên đỉnh mũ hoặc tháo rời ra.
* Cách thức và hoàn cảnh sử dụng.
Sử dụng khi tham gia giao thông khi làm việc ở ngoài công trình
Đội mũ lên đầu, mũ vừa phải ôm sát lấy đầu, khi đội mũ phải cài khóa, khóa phải vừa sát cằm không quá rộng và cũng không quá chặt để chắn bụi, mưa gió người ta thường kéo kính chắn gió.
* Tác dụng:
Để giảm chấn động do va đập bảo vệ vùng đầu đặc biệt là não.
Dùng để chắn bụi mưa gió và bảo vệ mặt.
III. Kết bài:
Mũ bảo hiểm đã thực sự trở thành đồ dùng thiết yếu đối với con người.
Dàn ý chi tiết số 2I. Mở bài
Dẫn dắt giới thiệu vấn đề mà đề bài đề cập đến: Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm.
II. Thân bài
* Nguồn gốc của mũ bảo hiểm
Thực ra chiếc nón bảo hiểm đã xuất hiện từ rất lâu rồi, có thể thấy từ trong những năm tháng chiến tranh chúng đã xuất hiện. Đó là tiền thân của chiếc mũ bảo hiểm hiện đại ngày nay.
Người ta đã tìm thấy những chiếc mũ cổ ở sâu dưới lòng đất, trong các ngôi mộ. Nếu như ai đã từng xem những bộ phim về Hy Lạp cổ đại, về các vị thần trên đỉnh Olympus thì ắt hẳn sẽ biết đến chiếc mũ có chóp nhọn ở trên đỉnh rất đặc trưng của người La Mã, Hy Lạp cổ đại.
Ban đầu thì chiếc mũ bảo vệ đầu của quân lính được làm bằng da, sau đó là làm bằng kim loại. Sau đó thì mũ được thay đổi bảo vệ cả khuôn mặt, chỉ để lộ ra phần mắt và mũi để thở. Thời gian dần trôi đi, những triều đại phong kiến phương Đông cũng đưa mũ bằng kim loại vào sử dụng trong quân đội. Đến chiến tranh thế giới thứ nhất thì Pháp đã coi mũ bảo hiểm chính là trang bị tiêu chuẩn cho người lính để các mảnh kim loại không bắn làm bị thương phần đầu trọng yếu. Sau đó thì các nước như Anh, Đức và nhiều nước châu Âu đã làm theo.
* Hình dáng và các bộ phận của mũ
Chiếc mũ bảo hiểm có hình tròn hay hình cầu để ôm lấy phần đầu của người sử dụng mũ. Mũ có 3 lớp gồm lớp vỏ ngoài, lớp vỏ thứ hai và lớp vỏ trong cùng; ngoài ra còn có dây quai, một số mũ có kính chắn gió, miếng lót cổ…
Lớp vỏ ngoài được làm từ nhựa cứng siêu bền với nhiều màu sắc khác nhau. Có những chiếc mũ còn được in lên hoa văn hay hình ảnh ngộ nghĩnh đáng yêu dành cho các bé nữa. Khiến chiếc mũ trở nên đẹp hơn rất nhiều.
Lớp vỏ thứ hai ngay sau lớp nhựa là một lớp xốp để giảm lực va chạm tác động. Còn lớp vỏ trong cùng là lớp vải mềm nhằm để lớp da đầu không bị tổn thương và đội lên cũng êm ái, dễ chịu hơn.
Quai đeo thường khá dài và có thể được kéo dài hay rút ngắn tùy ý. Chiếc quai mũ cũng như chiếc khóa cặp sách của trẻ em vậy. Phần khoá cài được làm từ nhựa còn phần dây được đan từ những sợi tổng hợp.
Kính chắn gió (nếu có) được làm từ nhựa trong suốt để người dùng có thể nhìn thấy đường đi dễ dàng.
* Phân loại mũ bảo hiểm
Mũ bảo hiểm nửa đầu: Như tên gọi của nó, chiếc mũ này chỉ bảo vệ nửa phần đầu trên vì để người dùng có thể lắng nghe được âm thanh mà phản xạ tránh đi kịp thời. Không chỉ vậy, trọng lượng nhẹ cùng kiểu dáng thời trang, giá cả rẻ nên được nhiều người ưa chuộng.
Mũ bảo hiểm có kính chắn gió: Chiếc mũ này có phần kính chắn gió có thể đẩy lên hoặc xuống. Lực lượng cảnh sát giao thông của nước ta hay sử dụng chiếc mũ này. Bởi khi có thêm kính thì kính sẽ cản lại gió, tránh để gió tạt vào mặt khiến chúng ta khó mở mắt quan sát đường.
Mũ bảo hiểm có lỗ thông gió: Lỗ thông gió này được thiết kế thêm ở phần sau đầu, đặc biệt dành cho phái nữ dùng khi buộc tóc. Lỗ thông gió sẽ giúp phần đầu không bị dính mồ hôi và khô thoáng hớn.
Mũ bảo hiểm ôm hết phần mặt: Loại mũ này thường được dùng cho các xe có phân khối lớn hay dân phượt là chủ yếu. Loại mũ này khá dày và bảo vệ phần đầu và cả phần mặt của người dùng rất tốt. Đồng thời chắn gió, giữ ấm cả khi trời lạnh.
* Công dụng của nón
Mũ bảo hiểm giúp bảo vệ phần đầu của chúng ta. Như tất cả đều biết thì phần đầu là phần cơ quan trọng yếu rất dễ bị tổn thương. Với lớp vỏ cứng, mũ giúp giảm sự va đập mạnh của các đồ vật hay do ngã xuống đường, từ đó là làm giảm nguy cơ bị tai nạn vùng đầu, chấn thương sọ não.
Từ ngày sử dụng mũ bảo hiểm thì tỉ lệ tử vong do bị tổn thương vùng đầu cũng đã giảm đi đáng kể. Đồng thời, mũ bảo hiểm với kiểu dáng và màu sắc đa dạng cũng khá là hợp thời trang.
* Cách sử dụng và bảo quản mũ bảo hiểm
Cách sử dụng mũ cũng vô cùng đơn giản. Chỉ cần đội mũ lên và cài quai là được. Nếu quai dài thì có thể chỉnh cho ngắn lại và nếu quai ngắn cũng có thể chỉnh cho dài ra sao cho vừa.
Mũ bảo hiểm chất lượng có giá thành cao hơn một chút nhưng lại bền và tốt hơn. Chiếc mũ đa số làm từ nhựa, vì vậy không nên đập quá mạnh mũ hay ném mũ đi.
III. Kết bài
Khái quát lại một vài suy nghĩ của bản thân về chiếc nón bảo hiểm, công dụng của mũ bảo hiểm.
Dàn ý chi tiết số 31. Mở bài
Giới thiệu về chiếc mũ bảo hiểm
2. Thân bài
* Lịch sử phát triển:
Đến thời La Mã, những chiếc mũ bảo hiểm được đúc bằng đồng, có chóp nhọn và có thể che chắn cả phần mặt.
Thế kỉ XVI-XVII mũ bảo hiểm làm bằng théo nhẹ, có vành rộng.
Ngày nay, mũ bảo hiểm được cách tân và cải tạo để phục vụ nhu cầu sử dụng hàng ngày: Mũ được làm bằng nhựa, nhẹ, dễ sử dụng, dùng để bảo vệ đầu khi tham gia giao thông hay khi lao động.
* Cấu tạo của mũ bảo hiểm:
Vỏ mũ: Thường làm bằng nhựa cứng, có độ bền cao. Kích thước, màu sắc và họa tiết trên vỏ mũ ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhiều đối tượng.
Ruột mũ: Làm bằng xốp nhẹ, bọc bên ngoài là lớp vải mềm tạo cảm giác dễ chịu, thoải mái khi đội.
Quai mũ: Dùng để cố định mũ với phần đầu của người sử dụng, có thể tùy ý điều chỉnh độ dài của quai mũ.
Kính mũ: Kính mũ được gắn bên ngoài vỏ mũ dùng để che nắng, mưa, bụi bẩn.
* Phân loại:
– Mũ bảo hiểm dùng trong giao thông:
Mũ bảo hiểm đội nửa đầu
Mũ bảo hiểm đội cả đầu
– Mũ bảo hiểm dùng trong lao động (Mũ bảo hộ)
* Cách sử dụng:
Sử dụng khi tham gia giao thông hoặc làm việc tại công trường, nhà máy.
Mũ cần vừa đầu, khi đội mũ phải cài khóa để cố định.
* Công dụng của mũ bảo hiểm:
Che mưa, nắng, bảo vệ mắt.
Giảm va đập, bảo vệ đầu, giảm nguy cơ chấn thương sọ não.
3. Kết bài
Khẳng định ý nghĩa của mũ bảo hiểm trong cuộc sống con người: Vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại, bảo vệ đầu, tránh những tác động ngoại lực lên đầu.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm ngắn gọn Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 1Nhịp sống của con người càng trở nên hối hả, tấp nập khi phương tiện giao thông ngày càng cải tiến hiện đại. Nhưng thực trạng tai nạn giao thông vẫn là mối đe dọa lớn đến tính mạng con người. Do đó chiếc mũ bảo hiểm trở nên quan trọng và gắn bó với cuộc sống con người.
Một chiếc mũ bảo hiểm thông thường có cấu tạo gồm ba lớp rất chắc chắn. Lớp thứ nhất là lớp chúng ta có thể nhìn thấy ngay bên ngoài – lớp vỏ. Đại đa số lớp vỏ của mũ bảo hiểm được làm bằng chất liệu nhựa rất cứng, trên bề mặt của lớp vỏ được phủ sơn với nhiều màu sắc khác nhau và in logo của nhà sản xuất.
Một số mũ bảo hiểm chuyên dùng cho trẻ em còn được trang trí rất sinh động với nhiều hình thù ngộ nghĩnh, chủ yếu để thu hút sự thích thú của “khách hàng nhí”. Ngoài ra còn có những dòng mũ bảo hiểm cao cấp sử dụng hợp kim nhôm hoặc hợp kim cacbon làm lớp vỏ bên ngoài để làm giảm trọng lượng của mũ, tạo sự thoải mái mà vẫn đảm bảo chức năng giữ an toàn cho người đội.
Lớp thứ hai là lớp quan trọng nhất – lớp mút xốp dày giữ vai trò giảm chấn động cho đầu khi gặp phải những va chạm mạnh bất thình lình. Lớp trong cùng cấu tạo từ một lớp lưới hoặc mút mỏng, thông thoáng hoặc có lỗ làm thoáng khí tạo cảm giác êm ái cho người sử dụng. Bên dưới là dây quai mũ được gắn với lớp vỏ cứng, cố định bằng ốc vít có tác dụng giữ mũ chặt vào đầu, khi bị ngã hay chịu một lực tác động thì mũ vẫn nằm yên trên đầu để bảo vệ đầu.
Dây mũ được làm bằng dây dù vừa rẻ vừa bền chắc. Để giúp cho việc đội mũ và tháo mũ được dễ dàng, nhà sản xuất có lắp thêm bộ phận dây cài. Bộ phận này gồm một phần gắn chặt với mũ được thiết kế khá chu đáo, có thể điều chỉnh độ dài ngắn của quai mũ phù hợp với kích cỡ đầu của từng người, một phần là móc khóa không cố định, có thể dễ dàng gắn vào khi cần và mở ra khi không sử dụng.
Trên mỗi sợi dây mũ còn có gắn một miếng cao su hay nhựa dẻo, phù hợp với vị trí cằm vừa để cố định mũ, vừa để bảo vệ cằm không bị tổn thương. Một số loại mũ bảo hiểm còn có từ 2 đến 3 lỗ thông gió để khi di chuyển sẽ tạo ra luồng gió làm thông thoáng khí trong mũ. Ở những nước có khí hậu nhiệt đới như nước Việt Nam ta thì các loại mũ có lỗ thông gió là loại thông dụng nhất vì khí hậu nóng ẩm mà phải đội mũ trong suốt chặng đường dài.
Dựa vào hình dáng bên ngoài ta có thể chia mũ bảo hiểm thành hai loại: loại bảo hộ toàn bộ phần đầu và loại bảo hộ nửa đầu. Loại bảo hộ nửa đầu ngày nay được người sử dụng ưa chuộng hơn vì độ gọn, nhẹ, đẹp, hợp thời trang và tiện ích của chúng. Tuy nhiên, so với loại bảo hộ toàn phần đầu thì nón bảo hiểm nửa đầu có mức độ bảo vệ thấp hơn. Các nhà sản xuất có uy tín cũng tập trung chú ý sản xuất các mặt hàng mũ bảo hiểm toàn phần đầu nhiều hơn.
Mũ bảo hiểm toàn phần đầu có thêm tấm kính trong suốt phía trước giúp ngăn chặn bụi bẩn, giảm áp lực của gió tạt vào mặt người dùng khi tham gia giao thông. Một chiếc mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng có giá từ vài trăm trở lên. Tuy nhiên, hiện nay, một số nhà sản xuất chỉ chú trọng vào mục đích lợi nhuận mà không quan tâm đến tính mạng con người đã tung ra thị trường những loại mũ bảo hiểm kém chất lượng với giá rất rẻ đánh vào tâm lý người dùng Việt Nam.
Đây là một hành động phi nhân đạo, cần phải có những biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng. Mỗi người cần có ý thức tự bảo vệ bản thân, đừng vì giá rẻ, lợi ích trước mắt mà lựa chọn những mặt hàng mũ bảo hiểm kém chất lượng.
Chúng ta cần có cách sử dụng và bảo quản mũ cẩn thận. Khi đội mũ cần chỉnh dây cài cho phù hợp với kích thước của đầu để mũ không quá chật cũng không quá lỏng. Tránh để mũ va đập nhiều làm giảm chất lượng của mũ và sử dụng nước khử mùi để giặt miếng lót bên trong.
Không nên đội chung mũ với người lạ đặc biệt là người có bệnh về da đầu để đảm bảo an toàn. Những chiếc mũ có bộ phận dây cài bị hỏng, lớp mút bên trong đã không còn đàn hồi tốt cũng không nên “tận dụng xài tạm”, đối phó…Hàng ngày, sau khi đội, nên để mũ ở những nơi thoáng mát hoặc đem phơi nắng để hong khô, giết chết vi khuẩn gây các bệnh nấm da đầu.
Các nhà sản xuất khuyên rằng: Khi sử dụng được năm năm, dù nón vẫn còn sử dụng được vẫn nên đổi nón mới để đảm bảo tốt nhất sự an toàn của chính bản thân. Đúng như tên gọi của nó, nón bảo hiểm có chức năng bảo vệ phần đầu – bộ phận rất quan trọng trên cơ thể người khỏi những tác nhân gây nguy hiểm. Khi tham gia giao thông, đôi khi con người sẽ không thể kiểm soát tay lái hoặc vô tình bị gây tai nạn, vì vậy cần phải đội mũ bảo hiểm để hạn chế những va đập mạnh ảnh hưởng đến vùng đầu, vùng cổ.
Chiếc mũ bảo hiểm như người bảo hộ cho chúng ta khi bước ra ngoài, là một thiên thần hộ mệnh an toàn. Vì vậy mọi người nên chọn cho mình một chiếc mũ phù hợp và bảo quản chúng thật tốt để bảo vệ tính mạng cho bản thân và cho mọi người xung quanh.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 2“An toàn là bạn, tai nạn là thù”. Đã bao giờ bạn tham gia giao thông mà không đội mũ bảo hiểm? Hay đã bao giờ bạn đội lên mình chiếc mũ bảo hiểm đơn giản chỉ để đối phó với các chú công an? Đã bao giờ bạn thắc mắc về cấu tạo của chiếc mũ bảo hiểm hay cùng gia đình mình tìm và chọn một chiếc mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng chưa?
Mũ bảo hiểm là một vật dụng cần thiết và đồng hành cùng con người trên mỗi tuyến đường, nó có vai trò rất quan trọng đối với con người, cần được tìm hiểu và sử dụng đúng cách để phát huy tác dụng cao nhất cho người tham gia giao thông.
Mũ bảo hiểm được ra đời nhằm thực hiện nghĩa vụ cao cả là bảo vệ phần đầu của người sử dụng khi xảy ra tai nạn, va đập trên đường. Người ta thường ví chúng như những nồi cơm điện bởi sự cần thiết của nó. Tại đất nước ta, luật đội mũ bảo hiểm đối với người ngồi trên xe mô tô khi tham gia giao thông được quy định từ năm 2007 và đã bắt đầu áp dụng. Mũ bảo hiểm có cấu tạo gồm ba bộ phận chính là vỏ nón, đệm bảo vệ và quai đeo.
Vỏ ngoài của nón được sản xuất bằng nhựa nguyên sinh hoặc các sợi cacbon có độ cứng cao, siêu bền với lớp nhựa dày. Khi cầm rất chắc tay, bề mặt mũ láng mịn. Được sản xuất bằng hạt nhựa nguyên sinh cao cấp nên rất dễ tạo hình nón. Vỏ nón cũng được trang trí bởi nhiều chi tiết màu sắc khác nhau phù hợp với thị hiếu và nhu cầu sử dụng theo từng độ tuổi.
Lớp đệm bảo vệ làm bằng lõi xốp thường là nhựa EPS, bộ phận này rất quan trọng để bảo vệ não khi xảy ra va chạm, độ dày được thiết kế phù hợp, lõi xốp được lắp cố định vào vỏ nón khó tách rời, ôm vừa sát đầu người sử dụng nhằm bảo vệ an toàn. Lớp đệm lót làm bằng vải mềm tạo cảm giác êm ái và dễ chịu khi đội mũ.
Quai cài thường được sản xuất từ sợi tổng hợp chất lượng cao, có miếng giữ cằm để cố định mũ, độ dài quai đeo linh hoạt, phần khóa quai chắc chắn, ăn khớp giúp dễ dàng thao tác. Ngoài ra một số loại mũ còn có thêm kính chắn gió, đệm lót cổ.
Mũ bảo hiểm được phân thành các loại cơ bản gồm mũ trùm kín đầu, 3/4 đầu và nửa đầu. Mũ bảo hiểm trùm kín đầu là loại mũ an toàn nhất, nó ôm trọn phần đầu, phần mặt và phần hộp sọ người sử dụng. Loại mũ này có khe hở ở vành đai và lỗ thông khí bên trong. Nó bảo vệ tối đa người lái nhưng thường nặng và khá cồng kềnh, rất thích hợp cho những chuyến đi xa trên đường quốc lộ đặc biệt là các phượt thủ.
Mũ 3/4 đầu dạng to, tròn, phủ kín phần sau sọ não nhưng thiếu thành chắn cằm và kính che mắt. Nên bụi, gió, mưa và vật nhỏ có thể bay vào mắt, loại này thích hợp để đi làm hàng ngày. Loại mũ nửa đầu không có các bộ phận ốp vào tai, không có kính lá chắn và ngắn ở phần sau đầu. Thích hợp khi di chuyển ở quãng đường ngắn. Khi sử dụng hai loại này cần trang bị thêm kính để bảo vệ mắt, ưu điểm của chúng là khá nhỏ gọn, sử dụng thuận tiện dễ dàng bỏ vừa cốp xe và hợp thời trang nên rất được ưa chuộng.
Mũ bảo hiểm rất hữu ích với chúng ta, bạn hãy thử tưởng tượng xem mình ra ra sao nếu đầu va đập trực tiếp vào nền bê tông. Đội mũ sẽ làm giảm va đập và chấn thương sọ não, giảm thiểu nguy cơ gây tử vong. Đặc biệt, cần sử dụng đúng cách, không nên dùng đối phó hay thiếu hiểu biết, không nên đội mũ mà không cài quai vì như vậy khi gặp tai nạn, mũ văng ra sẽ gây ra gây nguy hiểm cho người đi đường.
Khi đội mũ lên đầu cần kiểm tra xem quai mũ có vừa vặn không, không nên đội mũ quá rộng hoặc quá chật. Hiện nay, mũ bảo hiểm trôi nổi, hàng giả hàng nhái rất nhiều, những chiếc mũ đó giá dao động chỉ từ bốn mươi đến năm mươi ngàn đồng xuất hiện hàng loạt. Mũ kém chất lượng kèm theo là những hệ quả khó lường, sản xuất bằng nhựa pha, nhựa tái chế nên mỏng, giòn, dễ vỡ khi va đập, gây nguy hiểm.
Vì vậy nên chọn lựa cho mình một chiếc mũ đảm bảo chất lượng, khi mua nên kiểm tra mũ cẩn thận, mũ đạt chất lượng là mũ có dấu CR, tên cơ sở sản xuất hoặc địa chỉ nhập khẩu, có giấy bảo hành chính hãng. Không nên vì lợi ích trước mắt, tiết kiệm vài nghìn đồng mà tự gây nguy hiểm cho bản thân.
Thiết nghĩ, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người lại vì lợi nhuận trước mắt mà sẵn sàng kiếm lợi trên mạng sống của con người. Vì vậy, cần xử lí nghiêm những sai phạm của các nhà sản xuất chạy theo lợi nhuận. Đồng thời phải ý thức được tầm quan trọng của nó, nhiều bạn vẫn sợ tóc rối, sự xấu, sợ mất thời trang mà không đội mũ, đó là một sai lầm lớn.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 3Chỉ cần bước chân ra đường là chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh những chiếc mũ bảo hiểm song hành cùng với những người tham gia giao thông bằng xe máy, xe mô tô. Trong Luật Giao thông mà Nhà nước ta đã ban hành cũng có điều luật yêu cầu những người tham gia giao thông bằng xe mô tô, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm. Không phải vì là luật nên mọi người mới sử dụng mũ bảo hiểm mà vì hầu hết chúng ta đều ý thức được tầm quan trọng của sản phẩm này.
Mũ bảo hiểm là một loại mũ đặc biệt dùng để bảo vệ đầu của con người. Nếu chẳng may trong quá trình tham gia giao thông gặp phải tai nạn thì chiếc mũ sẽ giúp giảm chấn thương cho vùng đầu. Cấu tạo của một chiếc mũ bảo hiểm đạt chuẩn sẽ có 3 phần là vỏ ngoài, lớp lót trong và các phụ kiện đi kèm theo như quai mũ, kính chắn gió. Vỏ mũ được làm từ vật liệu nguyên sinh như nhựa tổng hợp và có độ bền cao. Chúng được làm gia công bằng sợi cacbon tăng độ bền và độ nhẹ cho chiếc mũ. Bên trong lớp vỏ là một lớp lót làm từ loại xốp cao cấp nén tỉ trọng cao. Nhờ vậy mà mũ không bị ảnh hưởng nhiều khi có tác động lực mạnh. Phần trong của mũ được thiết kế những khe thông gió. Chúng được thiết kế một cách khoa học giúp cho người tham gia giao thông cảm thấy thoải mái khi đội mũ. Phần trước của mũ có mui chắn giúp cản trở bụi bẩn, che chắn cho đôi mắt khỏi bụi bẩn ngoài đường và vẫn giúp cho người đội có thể quan sát được đường trong quá trình di chuyển.
Phía dưới của mũ bảo hiểm chính là quai mũ giúp cố định mũ trên đầu. Quai mũ có thể điều chỉnh sao cho vừa vặn với đầu của người đội. Khi đội mũ không nên để quai quá rộng nhưng cũng không nên cài quá chặt. Quai mũ thường được làm bằng dây dù vừa rẻ lại vừa bên. Một số loại mũ sử dụng dây da cao cấp hơn. Phần quai mũ được chia ra làm 2 phần có thể gắn vào hoặc tháo ra nhờ một cái nắp cài giống như nắp cặp của học sinh. Có một miếng cao su hay nhựa dẻo được gắn trên sợi dây có thể di động được sao cho vừa vặn với phần cằm. Bên cạnh đó, trên sợi dây cũng có một khớp nối để người sử dụng tùy chỉnh sao cho sợi dây sau khi cài ôm vừa vặn lấy đầu. Khi đội mũ, chỉ cần đặt mũ lên đầu rồi cài quai lại là xong.
Hiện nay có nhiều loại mũ bảo hiểm khác nhau chính vì vậy mà hình dáng mũ cũng đa dạng. Phổ biến nhất vẫn là 2 loại mũ nửa đầu và mũ trùm kín đầu. Mũ trùm kín đầu to và nặng nhưng độ an toàn và khả năng bảo vệ đầu cao hơn vì vậy thường được sử dụng khi người tham gia giao thông di chuyển quãng đường dài. Mũ bảo hiểm nửa đầu thì nhẹ hơn, tiện hơn, khi đội cũng không bị bí nhưng mức độ an toàn không được cao như mũ đội cả đầu nên thường được dùng khi người tham gia giao thông di chuyển quãng đường ngắn. Ngoài ra, các nhà sản xuất còn thiết kế riêng mũ bảo hiểm cho cảnh sát, cho dân đi phượt.
Tỉ lệ người dân tham gia giao thông bằng xe máy ở Việt Nam là khá cao, chính vì vậy mà thị trường bán mũ bảo hiểm ở Việt Nam cũng khá phát triển. Nhà sản xuất thì ngày càng tinh tế hơn, nhạy bén hơn khi sản xuất ra rất nhiều loại mũ bảo hiểm khác nhau với mẫu mã đa dạng, bắt mắt. Có những chiếc mũ mang hình dáng rất đáng yêu như superman, con ếch, con thỏ. Mặc dù mũ bảo hiểm là một vật dụng dùng để bảo vệ đầu nhưng không phải chiếc mũ nào cũng như vậy. Hiện nay mũ bảo hiểm bị làm giả, làm nhái rất nhiều và lại được bán với giá rất rẻ. Chính vì vậy mà nhiều người vẫn mua để sử dụng. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để chọn mua được mũ bảo hiểm chính hãng? Khi chọn mua mũ bảo hiểm bạn cần kiểm tra tem chống hàng giả dán trên mũ. Nếu mũ nhập khẩu còn có thêm tem kiểm tra. Ngoài ra, trên mũ cũng có những thông số về kích thước, ngày sản xuất, địa chỉ sản xuất. Mũ bảo hiểm chính hãng còn có giấy bảo hành của nhà sản xuất. Điều quan trọng khi đi mua mũ là bạn phải chọn mũ vừa vặn với đầu của mình.
Muốn bảo quản chiếc mũ bảo hiểm thì bạn cần nhớ là phải tránh không để phần bên trong của mũ bị ẩm ướt. Mũ của ai thì người đó sử dụng, đội chung mũ sẽ khiến da đầu bị ảnh hưởng. Thỉnh thoảng nên mang mũ đi khử trùng, vệ sinh để cho mũ được sạch sẽ và không làm hôi đầu mỗi lần đội. Nếu trong quá trình sử dụng mũ bảo hiểm nếu thấy mũ có dấu hiệu bị cũ, hư hỏng thì cần thay ngay hoặc nếu đã dùng trên 5 năm thì cũng nên thay mới.
Mũ bảo hiểm giống như một thiên thần hộ mệnh giúp cho con người được bảo vệ. Chính vì vậy, con người nhất thiết phải đội những chiếc mũ bảo hiểm chất lượng khi đi ra ngoài, đồng thời cần bảo quản chiếc mũ bảo hiểm cẩn thận.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 4Mũ bảo hiểm xuất hiện từ ngàn năm trước, lúc đầu chiếc mũ được làm bằng da thú rồi đất nước phát triển dần được thay thế bằng kim loại bằng sắt dùng cho binh lính trong các cuộc chiến tranh. Vào khoảng 1200 thì mũ hoàn toàn làm bằng sắt với những hình dáng khác nhau như hình trụ hoặc hình chóp thẳng. Thời trung cổ, mũ được cải tiến hơn được làm bằng chất liệu thép nhẹ, che được cả phần cổ. Ngày nay, mũ bảo hiểm được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày chứ không đơn thuần là dùng để trang bị cho người lính, nay nó được làm bằng chất liệu nhựa siêu bền có vai trò cần thiết đối với người tham gia giao thông.
Mũ bảo hiểm là loại mũ được cấu tạo đặc biệt dùng để bảo vệ đầu người khi bị tai nạn giao thông. Mũ cấu tạo gồm ba lớp. Lớp thứ nhất ở bên ngoài là lớp vỏ cứng được làm từ nhựa đặc biệt, cao cấp hơn người ta còn sử dụng sợi carbon siêu nhẹ. Lớp thứ hai là miếng xốp dày để giảm chấn động cho đầu khi bị va đập mạnh. Lớp trong cùng được cấu tạo bằng một chất liệu mềm và thưa để làm thoáng khí và làm êm đầu khi đội mũ. Bên dưới nón là dây quai nón có tác dụng giữ nón chặt vào đầu người sử dụng kể cả khi người sử dụng bị té ngã hay chịu lực tác động khác thì nó vẫn giữ chặt vào đầu người. Dây được may từ sợi dây dù vừa rẻ, bền, chắc hay cao cấp hơn thì dây được làm bằng da. Để giúp cho việc đội nón vào bỏ nón, người ta chia dây thành hai phần gắn lại với nhau bằng một móc khóa nhựa rất chắc nhưng thao tác tháo mở thì cực kì đơn giản. Trên sợi dây dài được gắn một miếng cao su hay nhựa dẻo có thể di động được phù hợp với vị trí cằm để góp phần giữ chặt nón vào đầu. Trên sợi dây còn có một khớp để có thể nới dây dài ra hoặc thu ngắn lại giúp nón giữ chặt với đầu có các kích thước lớn nhỏ khác nhau.
Mũ bảo hiểm ở một số loại có từ 2 đến 3 lỗ hầm gió để khi di chuyển sẽ tạo ra nguồn gió làm thông thoáng bên trong mũ. Những nước nhiệt đới như Việt Nam ta thì những loại mũ có lỗ thông gió là loại thông dụng nhất vì khí hậu nóng lại phơi nắng lâu nên có một thời gian nón bảo hiểm được ví như “nồi cơm điện” chụp trên đầu. Chính các lỗ thông gió này đã tạo cơ hội cho người sử dụng các loại nón kiểu này cảm thấy thuận tiện hơn khi đội nón. Người ta cấu tạo nón bảo hiểm có lỗ thông gió còn kèm thêm các nút bít để sử dụng thuận tiện vào mùa mưa.
Về hình dạng nón ta thường thấy có hai loại là: nón nửa đầu và nón trùm đầu. Đặc điểm nón nửa đầu là có trọng lượng nhẹ và rẻ hơn so với nón trùm đầu được người dân yêu thích vì nón trùm đầu giống như “nồi cơm điện” úp trên đầu. Phải chăng lúc ban đầu các nón bảo hiểm đều chủ yếu có màu trơn như trắng, đen nhìn rất đơn điệu. Sau này, các nhà sản xuất đã tiếp thị được nhu cầu của người sử dụng nên đã dán decal, in hình, hay làm màu sắc đa dạng để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Thậm chí màu sắc, hình ảnh trên nón còn thể hiện cái tôi, cái cá tính riêng của từng người. Ngoài ra, còn có chương trình hướng dẫn cho các bạn trang trí theo cá tính riêng của mình. Qua sự việc này ta thấy nón bảo hiểm đã trở thành một hình ảnh rất thân thiện không thể thiếu được trong cuộc sống của chúng ta.Để tăng thêm tiện ích cho mũ bảo hiểm, các nhà sản xuất đã gắn thêm lưỡi trai ngắn hay kính để che bụi giúp cho nón.
Mũ bảo hiểm được sử dụng khi tham gia giao thông khi làm việc ngoài công trình, cần phải chú ý sử dụng mũ, đội mũ lên đầu vừa với đầu mình để lớp trong của mũ có thể ôm sát lấy đầu, khi đội mũ phải cài khóa, khóa phải vừa sát cằm không quá rộng và cũng không quá chặt tránh trường hợp không cài khuy khi đi xe gió sẽ thổi làm mũ bay có thể gây ra tai nạn giao thông. để chắn bụi mưa gió người ta thường kéo kính xuống để bảo vệ mắt và được an toàn khi đi xe. Nếu tham gia giao thông đối với người đi xe máy không đội mũ bảo hoặc đội mũ không đúng cách thì sẽ vi phạm luật bị cảnh sát giao thông bắt giữ để phạt. Trong tình hình hiện nay, tai nạn giao thông có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu nên khi tham gia giao thông cần đội mũ ở mọi nơi mọi lúc.
Có thể nói chiếc mũ bảo hiểm rất gần gũi, quan trọng đối với mỗi người, nó là bia đỡ đạn cho tính mạng của loài người. Như chúng ta đã biết trong xã hội hiện nay số vụ tai nạn giao thông đã trở thành một con số lớn không những thiệt hại về của mà còn thiệt hại về người. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dẫn đến tai nạn giao thông và khi đó cần chiếc mũ bảo hiểm nó sẽ làm giảm chấn động do va đập và bảo vệ phần đầu đặc biệt là não. Nó còn dùng để chắn mưa gió, bụi để không cản trở việc an toàn giao thông khi đi trên đường.
Ngày nay, mũ bảo hiểm có những tính năng vượt trội, gọn nhẹ, dễ sử dụng. Nó đã thực sự trở thành một đồ dùng thiết yếu cho con người, cần nâng niu, bảo vệ chiếc mũ để nó có thể đồng hành với ta khi tham gia giao thông.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 5Trong cuộc sống, hình ảnh người tham gia giao thông với chiếc mũ bảo hiểm không còn quá xa lạ với chúng ta. Đội mũ bảo hiểm cũng là một trong những nội quy bắt buộc mà nhà nước chính quyền ban hành trong điều luật giao thông.Vì vậy chiếc mũ bảo hiểm có một vai trò khá quan trọng đối với mỗi người cùng với những lợi ích to lớn của nó.
Về cấu tạo thì mũ bảo hiểm là loại mũ đặc biệt dùng bảo vệ đầu của con người khi bị tai nạn giao thông hay bị va chạm quá mạnh. Mũ bảo hiểm thường cấu tạo bằng ba phần: vỏ ngoài, lớp lót trong và các phụ kiện đi kèm theo (quai mũ, kính chắn gió…). Phần vỏ mũ được làm từ vật liệu nguyên sinh, có độ bền cao. Vỏ mũ được làm từ các loại nhựa tổng hợp chứ không phải kim loại. Phần vỏ này thường được làm gia công bằng sợi cacbon tăng độ bền và độ nhẹ cho chiếc mũ. Lớp lót bên trong mũ được bằng loại xốp cao cấp nén tỉ trọng cao giúp mũ không bị ảnh hưởng khi có tác động lực mạnh. Bên trong mũ được thiết kế những khe thông gió. Những lỗ thông gió này được thiết kế rất khoa học giúp người tham gia giao thông đội mũ bảo hiểm một cách thoải mái và thông thoáng hơn, không tạo cảm giác ngứa ngáy cho da đầu. Phía trước mũ có mui chắn giúp cản trở bụi bẩn, che chắn cho đôi mắt người đội mũ có thể quan sát hình ảnh một cách sắc nét.
Ở dưới nón chính là quai nón, có tác dụng giữ cho nón chắc và chặt vào đầu người khi tham gia an toàn giao thông kể cả khi người sử dụng có bị té ngã hay chịu một lực tác động khác cực mạnh thì nó vẫn sẽ giữ chặt vào đầu người. Dây có thể là loại dây dù, vừa rẻ vừa bền, cũng có thể là loại dây da cao cấp hơn. Cách sử dụng mũ bảo hiểm rất đơn giản vì người ta chia sợi dây thành 2 phần gắn lại với nhau bằng một móc khóa nhựa rất chắc. Một miếng cao su hay nhựa dẻo được gắn trên sợi dây có thể di động được để phù hợp với vị trí cằm. Trên sợi dây đó còn có một khớp nối để người dùng điều chỉnh tùy ý, giúp nón giữ chặt với đầu và phù hợp với người sử dụng.
Có rất nhiều loại mũ nên cũng có đa dạng những hình dạng. Tuy nhiên có lẽ phổ biến nhất là 2 loại mũ : nón nửa đầu và nón trùm hết đầu. Nón trùm hết đầu khá cồng kềnh nhưng ngược lại độ an toàn thì rất yên tâm. Nó bao quanh đầu, có mặt kính an toàn ở tầm mắt nhìn, có khả năng chống bụi, giúp không cho tác nhân bên ngoài bay vào làm tổn hại mắt người nhìn. Loại mũ này không được phổ biến cho lắm, thường dùng cho dân đi phượt, cảnh sát. Ở loại thứ hai là mũ nửa đầu, được dùng phổ biến và dường như là hầu hết. Đúng như cái tên, loài mũ này bảo vệ phần nửa đầu trên của bạn, không có kính nhưng rất nhỏ gọn, và dễ sử dụng.
Đối với một đất nước mà hầu hết các phương tiện giao thông là xe máy như Việt Nam thì thị trường và mặt hàng về mũ bảo hiểm khá phát triển. Ngày nay đời sống nâng cao, nhà sản xuất cũng cho ra rất nhiều các kiểu mũ khác nhau với nhiều những hình ảnh kiểu dáng thẩm mĩ, bắt mắt người mua: chú thỏ, con ếch, superman. Bên cạnh những chiếc mũ an toàn thì cũng có những chiếc mũ không được nghiêm túc, hàng nhái, hàng giả. Đó là chính là một mối quan tâm cho nhiều người dân hiện nay rằng: “phải chọn những mũ bảo hiểm như thế nào?”. Nón bảo hiểm chất lượng phải là nón có tem chống giả được dán bởi bộ kiểm định chất lượng, nếu là hàng nhập khẩu từ nước ngoài thì phải có tem kiểm tra. Trên mũ thường có những thông số về: kích thước, ngày sản xuất, địa chỉ sản xuất. Khi mua đúng mũ chất lượng chúng ta thường có giấy bảo hành từ nhà sản xuất phòng khi mũ có vấn đề trục trặc. Một điều lưu ý nữa, khi mua mũ ta nên chọn những mũ vừa vặn với đầu mình, không nên quá rộng hay quá chật dù có đẹp đến mấy.
Để có thể bảo quản và sử dụng chiếc mũ một cách lâu bền nhất mỗi người cần có những lưu ý cẩn thận. Tránh để mũ ra nơi ẩm ướt rất dễ mốc vải trong lòng mũ và khiếm mũ hôi, bẩn. Không nên đội chung mũ với người khác, điều này rất không tốt cho da đầu ta. Nếu có thời gian rảnh rỗi thì hãy thường xuyên mang mũ ra khử trùng, vệ sinh để đảm bảo cho mũ sạch sẽ cũng như tốt cho da đầu mình mỗi khi sử dụng. Bạn cũng nên thay, mua mũ mới khi chiếc mũ bảo hiểm yêu quý có những dấu hiệu đã cũ ( nứt, bạc màu, đứt quai đeo, đã bị va đập mạnh…) hay đã sử dụng trên 5 năm.
Chiếc mũ bảo hiểm như người bảo hộ cho chúng ta khi bước ra ngoài, là một thiên thần hộ mệnh an toàn, tuy nhiên điều đó cũng phụ thuộc vào sự chọn lựa trong quá trình mua mũ của mỗi người. Hãy trân trọng, và thường xuyên cất giữ cũng như sử dụng để đảm bảo tính mạng cho mình khi tham gia giao thông.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 6Nhịp sống của con người càng trở nên hối hả, tấp nập khi phương tiện giao thông ngày càng cải tiến hiện đại. Nhưng một thực trạng giao thông tai nạn giao thông vẫn là mối đe dọa đến tính mạng của con người. Do đó chiếc mũ bảo hiểm ngày càng trở nên quan trọng và gắn bó với cuộc sống của con người.
Mũ bảo hiểm xuất hiện từ ngàn năm trước, lúc đầu chiếc mũ được làm bằng da thú rồi đất nước phát triển dần được thay thế bằng kim loại bằng sắt dùng cho binh lính trong các cuộc chiến tranh. Vào khoảng 1200 thì chiếc mũ hoàn toàn làm bằng sắt với những hình dáng khác nhau như hình trụ hoặc hình chóp thẳng. Thời trung cổ, mũ được cải tiến hơn được làm bằng chất liệu thép nhẹ, che được cả phần cổ. Ngày nay, mũ bảo hiểm được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày chứ không đơn thuần là dùng để trang bị cho người lính, nay nó được làm bằng chất liệu nhựa siêu bền có vai trò cần thiết đối với người tham gia giao thông.
Cấu tạo của chiếc mũ bảo hiểm đơn giản gồm: lớp vỏ ngoài cùng, lớp vỏ bên trong và quai. Lớp vỏ ngoài cùng được làm bằng nhựa siêu bền và được phủ một lớp bóng với nhiều màu sắc, chiếc mũ có kích thước, hình dáng khác nhau, tùy theo từng lứa tuổi mà người ta cho ra đời nhiều loại mũ đa dạng phong phú phù hợp với thị yếu của người tiêu dùng, lớp lót bên trong thường được làm bằng vật liệu mềm xốp, quai mũ có khóa cài chắc chắn để cố định mũ. Ngoài ra nhiều loại mũ bảo hiểm có kính để che gió trong suốt ở phía trước, kính có thể gấp lên trên đỉnh mũ. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại mũ bảo hiểm với nhiều hãng sản xuất khác nhau tạo ra một không gian rộng rãi để khách hàng có thể tha hồ lựa chọn những chiếc mũ mà mình ưa chuộng, để tăng tính thời trang, một số người nhất là lớp trẻ họ thường chọn loại mũ có màu sắc đẹp, sáng, có trang trí nhỏ và không có kính.
Mũ bảo hiểm được sử dụng khi tham gia giao thông khi làm việc ngoài công trình, cần phải chú ý sử dụng mũ, đội mũ lên đầu vừa với đầu mình để lớp trong của mũ có thể ôm sát lấy đầu, khi đội mũ phải cài khóa, khóa phải vừa sát cằm không quá rộng và cũng không quá chặt tránh trường hợp không cài khuy khi đi xe gió sẽ thổi làm mũ bay có thể gây ra tai nạn giao thông. để chắn bụi mưa gió người ta thường kéo kính xuống để bảo vệ mắt và được an toàn khi đi xe. Nếu tham gia giao thông đối với người đi xe máy không đội mũ bảo hoặc đội mũ không đúng cách thì sẽ vi phạm luật bị cảnh sát giao thông bắt giữ để phạt. Trong tình hình hiện nay, tai nạn giao thông có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu nên khi tham gia giao thông cần đội mũ ở mọi nơi mọi lúc.
Có thể nói chiếc mũ bảo hiểm rất gần gũi, quan trọng đối với mỗi người, nó là bia đỡ đạn cho tính mạng của loài người. Như chúng ta đã biết trong xã hội hiện nay số vụ tai nạn giao thông đã trở thành một con số lớn không những thiệt hại về của mà còn thiệt hại về người. Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dẫn đến tai nạn giao thông và khi đó cần chiếc mũ bảo hiểm nó sẽ làm giảm chấn động do va đập và bảo vệ phần đầu đặc biệt là não. Nó còn dùng để chắn mưa gió, bụi để không cản trở việc an toàn giao thông khi đi trên đường.
Ngày nay, mũ bảo hiểm có những tính năng vượt trội, gọn nhẹ, dễ sử dụng. Nó đã thực sự trở thành một đồ dùng thiết yếu cho con người, cần nâng niu, bảo vệ chiếc mũ để nó có thể đồng hành với ta khi tham gia giao thông.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 7Cuộc sống của chúng ta ngày càng hiện đại và phát triển không ngừng, kéo theo đó là giao thông xe cộ đi lại trên đường ngày một đông đúc. Với một nước di chuyển chủ yếu bằng xe máy như Việt Nam chúng ta, thì mũ bảo hiểm là vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình.
Mặc dù là một đồ dùng phổ biến, có lẽ ít ai biết được nguồn gốc của mũ bảo hiểm. Thực chất, mũ bảo hiểm đã xuất hiện từ rất lâu rồi, khoảng hơn 1000 năm trước. Chiếc mũ bảo hiểm ban đầu được làm bằng da, sau nhiều lần cải biến chuyển sang kim loại và sắt. Ngày trước, mũ bảo hiểm chủ yếu dùng cho những người lính, chiến sĩ. Năm 1200, mũ chuyển sang hoàn toàn làm bằng sắt, che kín cổ theo phong cách xưa. Sau nhiều quá trình thay đổi cho phù hợp, chiếc mũ bảo hiểm ngày nay được thiết kế nhỏ gọn và thích hợp hơn. Nó có cấu trúc khá đơn giản, phần vỏ ngoài được làm từ nhựa cứng siêu bền, hình bán cầu ôm sát đầu rất tiện lợi. Hơn nữa, mũ có rất nhiều màu sắc và kích thước khác nhau đa dạng phù hợp với từng đối tượng theo lứa tuổi và sở thích. Bên trong mũ thường có một lớp xốp, sau đó đến một lớp vải dày. Lớp vải này thường có những phần lưới để khi đội mũ trong thời gian dài, tóc sẽ không bị bí gây khó chịu. Quai mũ cũng là một chi tiết rất quan trọng, giúp cố định mũ với cơ thể thường đội. Quai mũ làm bằng dây vải bền và chắc, có khuy cài rất tiện lợi.
Nhìn chung, chiếc mũ bảo hiểm ngày nay rất nhỏ gọn mà vẫn giữ được đầy đủ tiêu chuẩn. Hiện tại, theo nhu cầu sử dụng, mũ bảo hiểm được thiết kế thêm nhiều phụ kiện khác đi kèm. Phổ biến nhất là chiếc mũ bảo hiểm thông thường với một lưỡi chai nhỏ ở đầu mũ. Ngoài ra, với những người đi xe đường dài thường có thêm kính đằng trước để chắn bụi, mưa gió chiếc kính này thiết kế linh hoạt, có thể đẩy lên gập xuống, cũng có thể tháo ra khi không cần thiết. Đối với một số người hay chơi xe mô tô, họ thường sử dụng những chiếc mũ có kính cỡ lớn hơn, bao phủ được cả tai xuống đến cổ. Mũ bảo hiểm rất dễ sử dụng, tháo quai cài, đội mũ lên đầu sao cho thật thoải mái, vừa vặn, rồi cài quai lại. Chú ý khi đeo nên chỉnh dây quai mũ sao cho phù hợp với mình, nếu quai mũ quá chặt sẽ gây cảm giác khó chịu, ngược lại nếu quá lỏng mũ sẽ dễ bị rơi. Mũ bảo hiểm tuy nhỏ nhưng lại là vật dụng hết sức quan trọng trong việc bảo vệ con người, thường được dùng cho công nhân công trường hoặc cho những ai tham gia giao thông. Mũ bảo hiểm vừa tránh nắng mưa, hơn hết là để giảm chấn động đầu, đặc biệt là vùng não nếu không may xảy ra va đập. Thời gian đầu khi mới được đưa vào sử dụng phổ biến thành luật giao thông, người dân rất ngại đội mũ bảo hiểm, tuy nhiên qua thời gian, mọi người đã ý thức được tầm quan trọng của vị cứu tinh này. Nhờ có mũ bảo hiểm, bao nhiêu tính mạng con người đã được bảo vệ an toàn.
Sự phát triển không ngừng như hiện tại của xã hội, các phương tiện giao thông cũng đa dạng hơn rất nhiều, ở nhiều nước ô tô là phương tiện di chuyển chủ yếu. Tuy nhiên, tầm quan trọng của mũ bảo hiểm chưa bao giờ bị mất đi, đây vẫn là một vật dụng cần thiết để mỗi chúng ta tự bảo vệ lấy chính mình và những người thân, để có một xã hội văn minh và tốt đẹp hơn.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 8Ngày nay, việc tham gia giao thông là điều khó có thể tránh khỏi khi mà người ta cần ra đường thường xuyên để thực hiện những công việc của mình. Song, rất nhiều cảm thấy lo sợ khi việc va chạm giữa các phương tiện giao thông rất dễ xảy ra. Để bảo vệ an toàn cho mọi người Chiếc nón bảo hiểm ra đời với những công dụng đặc biệt
Mũ bảo hiểm là một dạng mũ được sử dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội phòng khi có va đập lúc sử dụng các phương tiện như xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa… (với nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là “nồi cơm điện”). Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, mũ bảo hiểm còn có thể được dùng để gọi chung những loại mũ sắt, mũ cối trong quân đội, các loại mũ bảo vệ người chơi thể thao hay các loại mũ bảo hộ lao động
Theo truyền thống, mũ bảo hiểm được làm bằng các loại nhựa tổng hợp như ABS, HDPE nhưng vào khoảng mấy chục năm đổ lại đây, chất liệu đã được thay thế bằng Sợi Carbon vì độ bền cao và nhẹ hơn nhựa. Sự thúc đẩy, khuyến khích thậm chí là bắt buộc mọi người đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông từng là một đề tài nóng trong một thời gian dài. Đến nay, nhiều quốc gia đã áp dụng luật này. Tại Việt Nam, từ ngày 15 tháng 12 năm 2007 bắt đầu bắt đội mũ bảo hiểm đối với người sử dụng xe máy, xe máy điện, mô tô khi tham gia giao thông trên tất cả các tuyến đường.
Về cấu tạo lớp vỏ được làm bằng loại nhựa cứng, phải được làm rất chắc, bền để khi bị va đập không bị bể. Lớp lót bên trong là đệm bằng xốp rất mềm để bảo vệ đầu khi có va chạm. Quai cài và có miếng giữ cằm để cố định mũ được nối liền vào hai bên hông mũ, khi cột lại thì ôm sát vào cằm để đảm bảo khi đội không bị xê dịch. Kính chắn gió làm từ nhựa trong suốt, được gắn ở trên cùng, có thể kéo lên kéo xuống tùy ý người đội. Mũ bảo hiểm nhìn chung có ba loại chính. Loại đầu tiên là loại che cả đầu và cả hàm, giúp bảo vệ toàn bộ phần đầu, thường được sử dụng khi đi những loại xe phân khối lớn để bảo vệ đầu tốt nhất. Đồng thời, loại mũ này có ưu điểm khi đi mưa có thể không làm ướt mặt, ướt đầu. Tuy nhiên, giá thành của loại mũ này khá cao và khá cồng kềnh cho di chuyển. Loại thứ hai là loại che đầu và tai. Loại này có công dụng khá giống với loại một, nhưng nếu người sử dụng ngã về phía trước thì hoàn toàn trở nên vô dụng. Loại thứ ba thông dụng hơn là loại chúng ta vẫn sử dụng hàng ngày, đó là loại mũ chỉ che nửa đầu. Loại này có rất nhiều mẫu mã và hình sáng khác nhau. Đặc điểm chung của chúng là rất gọn gàng, nhỏ nhẹ và hợp thời trang,giá thành vừa phải cho người sử dụng. Mặc dù vậy, độ bảo vệ của nó bị giới hạn hơn so với 2 loại trên.
Chọn mũ bảo hiểm cũng phải biết cách chọn để có thể bảo vệ bản thân mình tốt nhất. Mua nón phải thử sao cho vành phải vừa đầu, không chật quá sẽ gây căng thẳng cho đầu, rộng qua sẽ không cố định được mũ. Quai mũ phải vừa với cằm, nếu không vừa có thể điều chỉnh lại bằng khóa dịch chuyển ở bên hông.
Bảo quản mũ bảo hiểm không cần quá cầu kỳ. Khi sử dụng xong có thể cất vào gọn một chỗ hoặc treo lên giá đều được. Thỉnh thoảng thời gian dùng lâu hay đi mưa có thể gây ẩm, hôi, có thể tháo lớp mút bên trong để giặt giũ, vệ sinh cho sạch sẽ.
Mũ bảo hiểm là đồ vật rất quan trọng cho cuộc sống hiện đại. hãy biết cách sử dụng nó để cuộc sống của chúng ta được bảo vệ đầy đủ.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 9Mũ bảo hiểm xuất hiện từ ngàn năm trước, lúc đầu chiếc mũ được làm bằng da thú rồi đất nước phát triển dần được thay thế bằng kim loại bằng sắt dùng cho binh lính trong các cuộc chiến tranh.
Vào khoảng 1200 thì mũ hoàn toàn làm bằng sắt với những hình dáng khác nhau như hình trụ hoặc hình chóp thẳng. Thời trung cổ, mũ được cải tiến hơn được làm bằng chất liệu thép nhẹ, che được cả phần cổ. Ngày nay, mũ bảo hiểm được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày chứ không đơn thuần là dùng để trang bị cho người lính, nay nó được làm bằng chất liệu nhựa siêu bền có vai trò cần thiết đối với người tham gia giao thông.
Cấu tạo của chiếc mũ bảo hiểm đơn giản gồm: lớp vỏ ngoài cùng, lớp vỏ bên trong và quai. Lớp vỏ ngoài cùng được làm bằng nhựa siêu bền và được phủ một lớp bóng với nhiều màu sắc. Chiếc mũ có kích thước, hình dáng khác nhau, tùy theo từng lứa tuổi mà người ta cho ra đời nhiều loại mũ đa dạng phong phú phù hợp với thị yếu của người tiêu dùng. Lớp lót bên trong thường được làm bằng vật liệu mềm xốp, quai mũ có khóa cài chắc chắn để cố định mũ. Ngoài ra nhiều loại mũ bảo hiểm có kính để che gió trong suốt ở phía trước, kính có thể gấp lên trên đỉnh mũ.
Trên thị trường hiện nay có nhiều loại mũ bảo hiểm với nhiều hãng sản xuất khác nhau tạo ta một không gian rộng rãi để khách hàng có thể tha hồ lựa chọn những chiếc mũ mà mình ưa chuộng, để tăng tính thời trang, một số người nhất là lớp trẻ họ thường chọn loại mũ có màu sắc đẹp, sáng, có trang trí nhỏ và không có kính.
Mũ bảo hiểm được sử dụng khi tham gia giao thông khi làm việc ngoài công trình, cần phải chú ý sử dụng mũ, đội mũ lên đầu vừa với đầu mình để lớp trong của mũ có thể ôm sát lấy đầu, khi đội mũ phải cài khóa, khóa phải vừa sát cằm không quá rộng và cũng không quá chặt tránh trường hợp không cài khuy khi đi xe gió sẽ thổi làm mũ bay có thể gây ra tai nạn giao thông. để chắn bụi mưa gió người ta thường kéo kính xuống để bảo vệ mắt và được an toàn khi đi xe.
Nếu tham gia giao thông đối với người đi xe máy không đội mũ bảo hoặc đội mũ không đúng cách thì sẽ vi phạm luật bị cảnh sát giao thông bắt giữ để phạt. Trong tình hình hiện nay, tai nạn giao thông có thể xảy ra ở bất cứ nơi đâu nên khi tham gia giao thông cần đội mũ ở mọi nơi mọi lúc.
Có thể nói chiếc mũ bảo hiểm rất gần gũi, quan trọng đối với mỗi người, nó là bia đỡ đạn cho tính mạng của loài người. Như chúng ta đã biết trong xã hội hiện nay số vụ tai nạn giao thông đã trở thành một con số lớn không những thiệt hại về của mà còn thiệt hại về người.
Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau mà dẫn đến tai nạn giao thông và khi đó cần chiếc mũ bảo hiểm nó sẽ làm giảm chấn động do va đập và bảo vệ phần đầu đặc biệt là não. Nó còn dùng để chắn mưa gió, bụi để không cản trở việc an toàn giao thông khi đi trên đường.
Ngày nay, mũ bảo hiểm có những tính năng vượt trội, gọn nhẹ, dễ sử dụng. Nó đã thực sự trở thành một đồ dùng thiết yếu cho con người, cần nâng niu, bảo vệ chiếc mũ để nó có thể đồng hành với ta khi tham gia giao thông.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 10Yếu tố đảm bảo sự an toàn cho con người trong mọi hoạt động của cuộc sống luôn là yếu tố thiết yếu và được đề cao. Trong mọi công việc từ nhỏ bé đến lớn lao vĩ đại, mà đặc biệt là các hoạt động thường ngày, luôn có những sản phẩm, thiết bị dùng để bảo vệ sức khỏe, thậm chí là mạng sống của con người. Nếu con người sử dụng các hóa chất phải có khẩu trang, bao tay; chơi thể thao phải đeo những đệm mút bảo vệ đầu gối, khuỷu tay; thì khi tham gia giao thông, hay trong một số hoạt động đặc biệt, mũ bảo hiểm là vật dụng không thể thiếu, mà đặc biệt quan trọng và cần thiết.
Thực chất, mũ bảo hiểm được ghi nhận là xuất hiện cùng thời với chiến tranh. Trong những trận chiến, trước cả gươm, giáo, quân đội Ba Tư đã tìm cho mình một vật dụng bảo vệ phần đầu, đó là chiếc mũ. Thuở sơ khai, mũ được làm bằng da, rồi rèn bằng sắt, đến thời La Mã thì mũ được làm bằng đồng, và thời đại phát triển, chiếc mũ cũng thay da đổi thịt và đến giờ thì có đa dạng mẫu mã, hình dáng, màu sắc. Và ngày nay, mũ bảo hiểm không chỉ được sử dụng trong quân đội, mà trong nhiều ngành nghề, công việc khác nhau, cần bảo vệ phần đầu, như trong thể thao, trong các ngành về điện, và đặc biệt người tham gia giao thông sử dụng phương tiện xe đạp, xe máy bắt buộc phải đội mũ bảo hiểm theo quy định của pháp luật để tránh những tai nạn đáng tiếc.
Chiếc mũ bảo hiểm tuy là vật dụng quen thuộc, nhưng không phải ai cũng nắm rõ cấu tạo của nó. Mũ bảo hiểm được thiết kế theo hình cầu, hoặc hình tròn để ôm trọn và vừa phần đầu của người sử dụng. Cấu tạo chính của một chiếc mũ gồm ba lớp: Lớp vỏ ngoài, lớp vỏ thứ hai và lớp trong cùng, đồng thời cũng có thêm một số chi tiết cũng khá quan trọng như quai mũ, kính chắn gió, miếng lót cổ. Thứ bắt mắt chúng ta bởi một chiếc mũ bảo hiểm có lẽ là lớp vỏ ngoài, lớp vỏ này được làm từ nhựa cứng siêu bền, được sơn nhiều màu sắc, in nhiều họa tiết, hoa văn khác nhau, khiến cho chiếc mũ trở nên thời trang hơn, phù hợp với nhiều lứa tuổi, sở thích của nhiều người. Lớp vỏ thứ hai ngay sau lớp nhựa cứng là một lớp đệm – một lớp xốp để làm giảm lực tác động khi đầu bị va chạm. Còn lớp trong cùng mà nhiều người có thể nhầm với lớp vỏ thứ hai là lớp làm bằng vải mềm nhằm mục đích êm đầu khi đội mũ, và giảm lực tổn thương nhiều nhất có thể khi bị va chạm. Bên cạnh đó, phần quai đeo thường khá dài, có thể điều chỉnh độ dài, ngắn phù hợp với người sử dụng. Phần quai đeo thường được sử dụng là màu đen, với phần khóa cài làm từ nhựa, dây quai là đan từ những sợi tổng hợp. Trên quai mũ, thường có miếng giữ cằm để cố định mũ. Khi đội mũ, chúng ta phải chỉnh dây đeo sao cho, miếng giữ cằm cân đối với cằm ta, thì mới là mũ vừa. Ngoài ra, một số loại mũ có kính chắn gió, thì miếng kính chắn gió này được làm từ nhựa cứng trong suốt để không cản trở tầm nhìn của người sử dụng.
Mũ bảo hiểm có thể nói là vật dụng rất phổ biến trong cuộc sống của chúng ta, bởi lẽ vai trò và công dụng mà nó mang đến rất trọng yếu. Trên cơ thể con người, phần đầu với vị trí của bộ não là vùng đặc thù cần được bảo vệ cẩn thận, bởi không chỉ nơi đây là trung ương thần kinh, mà còn là vùng dễ bị tổn thương. Vì thế việc đội mũ bảo hiểm có thể giúp con người giảm nguy cơ chấn thương sọ não khi phần đầu bị va chạm, bởi với kết cấu chắc chắn như trên, mũ bảo hiểm sẽ giảm va đập và hấp thu chấn động do sự va chạm mạnh từ các đồ vật hoặc do ngã xuống đường. Từ đó mà tỉ lệ tử vong đáng tiếc sẽ giảm, tính mạng của con người cũng được bảo đảm hơn một phần. Từ năm 2007, khi điều lệ đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông được đưa vào bộ luật của Việt Nam, thì tỉ lệ chấn thương sọ não do tai nạn giao thông xác thực là đã giảm đáng kể.
Mũ bảo hiểm cũng được chia thành bốn loại chủ yếu. Một là mũ bảo hiểm nửa đầu, chiếc mũ này dùng để bảo vệ phần nửa đầu trên, để người dùng có thể nghe thấy âm thanh khi di chuyển để phản xạ kịp thời, loại mũ này thường được sử dụng để đi chặng đường dài. Hai là mũ bảo hiểm có kính chắn gió, như tên gọi, loại mũ này sẽ có miếng kính chắn trước mặt, để tránh lực cản của gió, bụi bặm, giúp tầm nhìn của người sử dụng được thoáng, và bảo vệ cả đôi mắt. Loại thứ ba là mũ bảo hiểm có lỗ thông gió, trên chiếc mũ thường là ở phía sau đầu sẽ được thiết kế một cái lỗ để khiến phần đầu thoáng, và khô mồ hôi, khi đội mũ. Tuy nhiên cũng có những chiếc mũ, mà lỗ thông gió được thiết kế khác nhau, nên khi mua, ta cần hỏi kỹ nhà sản xuất xem lỗ thông gió sử dụng như nào. Và cuối cùng là mũ bảo hiểm ôm hết phần mặt, đây là loại mũ chuyên dùng cho dân phượt và những người đi xe phân phối lớn, chiếc mũ khá là dày và có thể bảo vệ hết phần đầu, và phần mặt tới cằm của người sử dụng, đồng thời cản gió, cản bụi khá tốt, loại mũ này không thường được sử dụng hằng ngày, bởi khá cồng kềnh và đắt.
Như vậy, ta có thể thấy mũ bảo hiểm tuy là vật dụng vô cùng quen thuộc nhưng cũng tương đối quan trọng trong cuộc sống hằng ngày. Đôi khi, nhờ có chiếc mũ bảo hiểm mà ta đã lướt qua mặt diêm vương lại được kéo về. Vì thế, mỗi người hãy lựa chọn cho mình một chiếc mũ bảo hiểm phù hợp về cả chất lượng, kiểu dáng và màu sắc phù hợp sở thích, để sử dụng cũng chính là bảo vệ không chỉ bản thân mà còn là bảo vệ mọi người xung quanh.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm – Mẫu 11Khi điều khiển phương tiện giao thông thì chúng ta không thể thiếu một dụng cụ hết sức quan trọng, đó chính là mũ bảo hiểm đội đầu. Mũ bảo hiểm giao thông như là một người bạn của chúng ta và sẵn sàng bảo vệ chúng ta khi chúng ta đội nó. Vì vậy mũ bảo hiểm giao thông có vai trò to lớn đối với mỗi người. Từ khi mũ bảo hiểm giao thông bắt buộc phải sử dụng đã làm hạn chế tai nạn giao thông, giảm đáng kể số trường hợp tử vong do tai nạn giao thông gây ra.
Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội khi có va đập lúc đua xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa… Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, mũ bảo hiểm còn chỉ đến những loại mũ có chức năng bảo vệ phần đầu được sử dụng trong lao động và trong hoạt động thể thao.
Cái chết của ông được các bác sĩ chăm sóc ông, trong đó có nhà phẫu thuật thần kinh Hugh Cairns nghiên cứu rất kĩ lưỡng. Bác sĩ Hugh Cairns bị ấn tượng bởi tai nạn của Lawrence và tiến hành một loạt nghiên cứu. Từ nghiên cứu của ông đã dẫn đến việc phát minh mũ bảo hiểm để sử dụng khi đi xe máy, mô tô,…
Về cấu tạo: lúc ban đầu, mũ được chế tạo từ kim loại nên khá nặng nề. Sau này, khi vật liệu mới phát triển, người ta đã có thể làm ra những chiếc mũ nhẹ hơn nhưng có tác dụng bảo vệ tốt hơn.
Mũ được cấu tạo bởi 3 loại vỏ: lớp vỏ ngoài, lớp đệm mềm, lớp lót và quai đeo. Lớp vỏ ngoài làm bằng nhựa cứng siêu bền, có chức năng chống va đập mạnh. Lớp thứ 2 làm bằng nhựa tổng hợp chứ không phải là kim loại, loại nhựa này thường được gia công bằng sợi carbon làm tăng độ bền và nhẹ. Lớp lót bên trong làm từ loại xốp cao cấp được nén tỉ trọng cao nên giúp mũ không bị ảnh hưởng gì khi có lực tác động vào, bảo vệ đầu khi có va đập mạnh.
Kết nối với phần cứng là một dây cài giúp giữ chặt nón vào đầu người khi tham gia giao thông. Bộ phận này có vai trò giữ chặt mũ trên đầu để không bị lệch khi đi xe và không văng ra khỏi đầu khi có sự cố xảy ra. Khi muốn tháo ra chỉ cần bấm mạnh hai bên của nút cài thì sẽ tháo được. Trên dây cài có một thiết bị nới giúp nới dây lỏng hay siết để mũ vừa với đầu mình.
Ngoài ra, mũ còn được thiết kế thêm cái kính chắn gió phía trước giúp mặt mình không bị gió thổi vào hay bụi bay vào làm cản trở tầm nhìn của mình. Trên quai đeo ngay phần cằm cổ có một miếng đệm giúp giữ chặt mũ.
Đối với một đất nước mà hầu hết các phương tiện giao thông là xe máy như Việt Nam thì thị trường và mặt hàng về mũ bảo hiểm khá phổ biến. Nhằm đáp ứng thị hiếu và nhu cầu người sử dụng, các nhà sản xuất cũng cho ra các kiểu mũ có nhiều hình dạng khác nhau với các hình vẽ ngộ nghĩnh như: con ếch, doraemon, superman,….
Chất lượng bảo vệ đầu của mũ phụ thuộc rất nhiều vào chất liệu sản phẩm, cách sử dụng sản phẩm nên giá thành cũng khác nhau. Tại Việt Nam, một chiếc mũ bảo hiểm chất lượng giá từ 250.000 nghìn trở lên. Những chiếc mũ giá rẻ thì chất lượng kém, không có giá trị bảo vệ khi tai nạn xảy ra. Nhờ có sự có mặt của mũ bảo hiểm, số người tử vong vì tai nạn giao thông giảm đáng kể một phần do không chấp hành nội quy, và một phần do không đội nón bảo hiểm.
Mũ bảo hiểm giao thông có tác dụng làm giảm va đập và hấp thụ chấn động do va đập giảm xung động, giảm nguy cơ gây chấn thương sọ não và các trường hợp tử vong do chấn thương phần đầu gây ra bởi tai nạn giao thông. Nhờ phần kính chắn gió bảo vệ, tầm nhìn của người điều khiển phương tiện cũng tốt hơn, giúp chủ động trong các trường hợp nguy hiểm. Chiếc mũ đội đầu còn có vai trò làm đẹp hơn hình ảnh người tham gia giao thông.
Bên cạnh những chiếc mũ an toàn thì cũng có những chiếc mũ kém chất lượng, hàng nhái, hàng giả. Đó chính là mối quan tâm cho nhiều người dân hiện nay. Nón bảo hiểm chất lượng phải là nón có tem chống giả được dán bởi bộ kiểm định chất lượng, nếu là hàng nhập khẩu từ nước ngoài thì phải có tem kiểm tra. Trên mũ thường có những thông số về: kích thước, ngày sản xuất, địa chỉ sản xuất…Khi mua đúng mũ chất lượng chúng ta thường có giấy bảo hành từ nhà sản xuất phòng khi mũ có vấn đề trục trặc.
Mũ bảo hiểm giao thông là một đồ dùng rất quan trọng, không thể thiếu khi tham gia giao thông trên đường. Mũ không những giúp bảo vệ con người mà còn tạo nên ý thức văn hóa trong tham gia giao thông của con người.
Mũ bảo hiểm có vai trò to lớn đối với mỗi người chúng ta. Chúng cứ như những người bảo vệ đi theo bảo vệ ta khi điều khiển phương tiện giao thông. Vì thế, hãy sử dụng, trân trọng và giữ gìn nó khi tham gia giao thông để bảo vệ tính mạng của chúng ta.
Thuyết minh về chiếc mũ bảo hiểm đầy đủ nhấtThuyết minh mũ bảo hiểm hay nhất
Thuyết minh về mũ bảo hiểm – Mẫu 1Những người tham gia giao thông đi xe gắn máy luôn luôn là một trong những đối tượng phải bắt buộc đội mũ bảo hiểm. Mũ bảo hiểm ra đời như để bảo vệ người tham gia giao thông. Theo thống kê thị số người tham gia giao thông bị tai nạn thì việc thương tích ở đầu là rất lớn. Có lẽ chính bởi thế mà để đề phòng những tình huống xấu nhất về tai nạn thì chiếc mũ bảo hiểm thực sự là một sự lựa chọn cần thiết nhất.
Hiện nay, ta như biết được rằng mũ bảo hiểm là loại mũ được cấu tạo đặc biệt dùng để bảo vệ đầu người khi bị tai nạn giao thông xảy ra. Thế rồi chiếc mũ cấu tạo gồm ba lớp. Đối với lớp thứ nhất ở bên ngoài là lớp vỏ cứng được làm từ nhựa đặc biệt, cao cấp hơn người ta còn sử dụng sợi carbon siêu nhẹ. Còn ở lớp thứ hai là miếng xốp dày để giảm chấn động cho đầu khi bị va đập mạnh. Chưa hết, đó còn có một lớp trong cùng được cấu tạo bằng một chất liệu mềm và thưa để làm thoáng khí và làm êm đầu khi đội mũ bảo hiểm dù có trọng lượng rất nặng.
Mũ còn được cấu tạo bởi bộ phận quan trọng đó chính ở bên dưới nón là dây quai nón có tác dụng giữ nón chặt, không bị tuột hay mũ bị xô lệch khi đội. Đặc biệt hơn nữa đó chính là kể cả khi người sử dụng bị té ngã hay chịu lực tác động khác thì nó vẫn giữ chặt vào đầu người. Dễ dàng nhận thấy được rằng chính dây được may từ sợi dây dù vừa rẻ, lại cũng rất bền, chắc. Còn đối với hàng cao cấp hơn thì dây được làm bằng da chắc chắn và có tuổi thọ cao. Người thiết kế ra chiếc mũ bảo hiểm cũng đã có cách là gắn chặt với dây đeo đó là một chiếc móc khóa. Chiếc mũ này giúp cố định dây đồng thời cũng như điều chỉnh độ dài của dây.
Trong thị trường hiện nay thì ta như thấy được chính mũ bảo hiểm ở một số loại có từ 2 đến 3 lỗ để hầm gió để khi di chuyển sẽ tạo ra nguồn gió làm thông thoáng bên trong mũ giúp cho người đội cũng sẽ cảm thấy thoải mái hơn.
Hình dạng của chiếc mũ bảo hiểm hiện nay cũng rất đa dạng. Nhưng chia ra thành hai loại đó chính là mũ nửa đầu và mũ trùm đầu. Thông thường thì mũ trùm đầu có trọng lượng nhẹ hơn và được nhiều người sử dụng hơn. Mũ nửa đầu rất thích hợp dùng cho con trẻ vì trọng lượng nhẹ. Còn với mũ trùm đầu thì nó được coi như “nồi cơm điện” tính an toàn cao nhưng trọng lượng thì hơi nặng.
Hiện nay vấn đề màu sắc của những thiết kế mũ bảo hiểm này cũng được chú trọng hơn. Để phù hợp với từng sở thích của người sử dụng. Và những chiếc mũ bảo hiểm hiện nay không còn đơn điệu mà cũng rất trẻ trung năng động, có thêm rất nhiều chi tiết hoa văn cách điệu cho thật xinh xắn nữa.
Ngoài ra ta như thấy được rằng, để tăng thêm tiện ích cho mũ bảo hiểm, các nhà sản xuất đã gắn thêm lưỡi trai ngắn hay kính để che bụi giúp cho nón. Hiện nay, ta như đôi khi ta vẫn thấy có những nón có nhiều phụ kiện làm đẹp thái quá. Có rất làm cho người khác như có cảm giác phản khoa học như các phụ nữ thường gắn thêm miếng vải che nắng hoặc do thói quen đội nón vải mà nhiều người đã gắn thêm miếng lưỡi trai quá dài. Tuy nhiên ta như thấy được cũng chính điều đáng nói là tất cả nón này đều không được các nhà sản xuất lớn, nổi tiếng có uy tín sản xuất ra và đây chỉ là những xưởng thủ công nhỏ lẻ tự phát mà thôi.
Hiện nay, ta như cũng đã biết được rằng những chiếc mũ bảo hiểm có quá nhiều giá, nhiều loại và nhiều chất lượng khác nhau. Cho nên việc mua hàng cũng rất cần tỉnh táo để có thể tránh được việc mua phải hàng nhái với số tiền lớn. Bạn cũng nên nhớ rằng mũ bảo hiểm trong nước phải có dấu CS (dấu do tự doanh nghiệp công bố sản phẩm của mình phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam). Còn đối với mũ ngoại nhập không có dấu CS nhưng phải có tem kiểm tra. Khi người tiêu dùng đi mua thì cũng nên xem các thông số ghi trên mũ: Tên và địa chỉ đơn vị sản xuất, cỡ mũ, ngày sản xuất, hướng dẫn sử dụng đặc biệt hơn đó cũng chính là những kí hiệu này phải rõ ràng, không lu mờ, trơn bóc.
Khi bạn sử dụng mũ bảo hiểm thì bạn cũng nên thay chiếc nón bảo hiểm mới sau 5 năm sử dụng để đúng như theo lời khuyến cáo của các nhà nghiên cứu.
Mũ bảo hiểm thực sự là người bạn thân thiết cho những ai tham gia giao thông để có thể bảo vệ chính tính mạng của chúng ta.
Thuyết minh về mũ bảo hiểm – Mẫu 2Đi kèm với sự phát triển không ngừng của xã hội là sự xuất hiện của những vấn nạn nghiêm trọng ảnh hưởng rất lớn đến con người. Một trong những vấn nạn đó phải kể đến là vấn nạn giao thông. Vậy, làm sao để bảo vệ bản thân và người khác khỏi những mối đe dọa tốc độ? Đó là phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông.
Luật giao thông đường bộ năm 2008 cũng quy định: “Người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy phải đội mũ bảo hiểm có cài quai đúng quy cách”. Vì vậy, nón bảo hiểm nghiễm nhiên trở thành bạn đồng hành không thể thiếu đối với mọi người khi tham gia giao thông.
Nón bảo hiểm có cấu tạo như thế nào? Đó là một loại nón có cấu tạo gồm ba lớp rất chắc chắn. Lớp thứ nhất là lớp chúng ta có thể nhìn thấy ngay bên ngoài – lớp vỏ. Đại đa số lớp vỏ của nón bảo hiểm được làm bằng chất liệu nhựa rất cứng, trên bề mặt của lớp vỏ được phủ sơn với nhiều màu sắc khác nhau và in logo của nhà sản xuất.
Một số nón bảo hiểm chuyên dùng cho trẻ em còn in những hình ảnh khá cầu kì, tạo sự thích thú cho những “khách hàng nhí”. Ngoài ra còn có những dòng nón bảo hiểm cao cấp sử dụng hợp kim nhôm hoặc hợp kim cacbon làm lớp vỏ bên ngoài để làm giảm trọng lượng của nón, tạo sự thoải mái mà vẫn đảm bảo chức năng giữ an toàn cho người đội. Lớp thứ hai là lớp quan trọng nhất – lớp mút xốp dày giữ vai trò giảm chấn động cho đầu khi gặp phải những va chạm mạnh bất thình lình.
Lớp thứ ba – lớp trong cùng – là lớp tiếp xúc với phần đầu của chúng ta. Vì tiếp xúc với phần đầu con người nên nó phải là một lớp lưới hoặc mút mỏng, thông thoáng, tạo cảm giác êm ái cho người dùng. Bên dưới nón là bộ phận dây gài giúp giữ chặt nón vào đầu. Bộ phận dây gài cũng gồm hai phần, một phần gắn chặt với nón được thiết kế khá chu đáo, có thể điều chỉnh độ dài ngắn của quai nón phù hợp với kích cỡ đầu của từng người, một phần là móc khóa không cố định, có thể dễ dàng gắn vào khi cần và mở ra khi không sử dụng.
Nón bảo hiểm có bao nhiêu loại? Dựa vào hình dáng bên ngoài ta có thể chia nón bảo hiểm thành hai loại: loại bảo hộ toàn bộ phần đầu và loại bảo hộ nửa đầu. Loại bảo hộ nửa đầu ngày nay được người sử dụng ưa chuộng hơn vì độ gọn, nhẹ và tiện ích của chúng.
Tuy nhiên, so với loại bảo hộ toàn phần đầu thì nón bảo hiểm nửa đầu có mức độ bảo vệ thấp hơn. Các nhà sản xuất có uy tín cũng tập trung chú ý sản xuất các mặt hàng mũ bảo hiểm toàn phần đầu nhiều hơn. Mũ bảo hiểm toàn phần đầu có thêm tấm kính trong suốt phía trước giúp ngăn chặn bụi bẩn, giảm áp lực của gió tạt vào mặt người dùng khi tham gia giao thông.
Một chiếc nón bảo hiểm đảm bảo chất lượng có giá từ vài trăm trở lên. Tuy nhiên, hiện nay, một số nhà sản xuất chỉ chú trọng vào mục đích, không quan tâm đến tính mạng con người đã tung ra thị trường những loại mũ bảo hiểm kém chất lượng với giá rất rẻ đánh vào tâm lý người dùng Việt Nam. Đây là một hành động phi nhân đạo, cần phải có những biện pháp xử lý nghiêm minh, thích đáng. Mỗi người cần có ý thức tự bảo vệ bản thân, đừng vì giá rẻ, lợi ích trước mắt mà lựa chọn những mặt hàng mũ bảo hiểm kém chất lượng.
Đúng như tên gọi của nó, nón bảo hiểm có chức năng bảo vệ phần đầu – bộ phận rất quan trọng trên cơ thể người khỏi những tác nhân gây nguy hiểm. Khi tham gia giao thông, đôi khi con người sẽ không thể kiểm soát tay lái hoặc vô tình bị – gây – tai – nạn, vì vậy cần phải đội nón bảo hiểm để hạn chế những va đập mạnh ảnh hưởng đến vùng đầu, vùng cổ.
Chúng ta phải lựa chọn và sử dụng nón bảo hiểm như thế nào để phát huy tối đa tác dụng bảo vệ? Trước hết, trong việc lựa chọn, người dùng cần sáng suốt, xứng đáng là một người tiêu dùng thông minh khi chọn mua những sản phẩm mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng.
Vậy, thế nào là một nón bảo hiểm chất lượng? Nón bảo hiểm chất lượng phải là nón có tem chống giả được dán bởi bộ kiểm định chất lượng, nếu là hàng nhập khẩu phải có tem kiểm tra. Trên mũ bảo hiểm phải có đầy đủ những thông tin như: kích thước nón, ngày sản xuất, cơ sở sản xuất, địa chỉ cơ sở sản xuất.
Khi mua nón bảo hiểm chất lượng người dùng sẽ được nhận giấy bảo hành của cơ sở sản xuất để được hỗ trợ khi có vấn đề trục trặc trong quá trình sử dụng sản phẩm nón bảo hiểm đó. Thứ hai, người tiêu dùng cần chọn những nón bảo hiểm vừa vặn với kích cỡ phần đầu của mình, không chọn mua những sản phẩm quá rộng hoặc quá chật dù nó có đẹp hơn, bắt mắt hơn.
Vậy, thế nào là vừa? Bạn hãy thử đội nón bảo hiểm vào đầu, cài quai vào, lắc đầu sang trái, sang phải xem nón có ôm trọn phần đầu của mình hay không. Nón vừa ôm trọn phần đầu, tạo cảm giác thoải mái khi đội. Nếu nón bị xê dịch nghĩa là nó rộng so với đầu của bạn, nếu đội vào không cảm thấy thoải mái nghĩa là nó hơi hẹp so với đầu của bạn, cả hai trường hợp đó đều không nên chọn mua.
Advertisement
Thứ ba, trong quá trình sử dụng, người dùng cần thường xuyên kiểm tra chất lượng nón để đảm bảo an toàn khi sử dụng. Nón đã bị va chạm mạnh không nên tiếp tục sử dụng. Những chiếc nón có bộ phận dây gài nón bị hư, lớp mút bên trong đã không còn đàn hồi tốt cũng không nên “tận dụng xài tạm”, đối phó.
Hàng ngày, sau khi đội, bạn nên để nón ở những nơi thoáng mát hoặc đem phơi nắng để hong khô, giết chết vi khuẩn gây các bệnh nấm da đầu. Các nhà sản xuất khuyên rằng: Khi sử dụng được năm năm, dù nón vẫn còn sử dụng được vẫn nên đổi nón mới để đảm bảo tốt nhất sự an toàn của chính bản thân.
Thuyết minh về mũ bảo hiểm – Mẫu 3Ngày nay việc bắt gặp hình ảnh người tham gia giao thông điều khiển xe máy mang mũ bảo hiểm là một điều hiển nhiên trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thế nhưng để có được hình ảnh đó thì đã tốn không ít công sức của các cấp chính quyền. Trải qua những cuộc vận động, những chiến dịch tuyên truyền và một khoảng thời gian để người dân thích nghi cuối cùng đã có được kết quả như ngày nay.
Thế nón bảo hiểm là gì và tại sao lại cần thiết đến nỗi mất đến cả một khoảng thời gian dài để người dân thích nghi với nó?Năm 2007, bộ giao thông vận tải áp dụng quy định con người phải đội mũ bảo hiểm khi sử dụng xe mô tô, xe gắn máy vào thực tế. Mũ bảo hiểm được biết đến với công dụng là bảo vệ đầu của người sử dụng khi bị tai nạn giao thông. Một chiếc mũ bảo hiểm bao gồm có ba lớp. Lớp đầu tiên ở phần bên ngoài chính là lớp vỏ cứng.
Lớp này được làm từ nhựa đặc biệt, hoặc người ta có thể sử dụng sợi carbon siêu nhẹ với những chiếc mũ cao cấp hơn. Lớp thứ hai chính là lớp chính giữa. Mang một chức năng chính để làm nên chiếc mũ bảo hiểm chính là giảm lực chấn động lên đầu khi có tác động mạnh từ bên ngoài. Phần này thường được làm từ những miếng xốp dày vì xốp là vật liệu có khả năng giảm lực va đập và có trọng lượng nhẹ.
Lớp lót trong cùng được làm bằng chất liệu mềm và thoáng khí. Điều này sẽ giúp cho người đội có cảm giác êm và thoáng khí hơn khi đội mũ.Một điều không thể thiếu cho người đội mũ đó chính là phần dây quai nón bảo hiểm. Phần này có vai trò rất quan trọng chính là giữ nón cố định với đầu của người sử dụng.
Bất kể là trường hợp người dùng bị té, hay có những tác động khác thì chiếc mũ vẫn cố định ở trên đầu và bảo vệ đầu của người sử dụng. Phần quai mũ được làm từ chất liệu là sợi dây dù vừa chắc, bền lại còn có giá thành vừa phải. Còn đối với những chiếc mũ cao cấp hơn sẽ có phần quai được làm bằng da. Để thuận lợi cho người sử dụng khi đội nón và cởi nón, dây quai nón sẽ được chia làm hai phần. Hai đầu này được gắn lại với nhau bằng một chiếc khóa nhựa chắc chắn.
Bên trên sợi dây còn được gắn thêm một miếng cao su để tránh cọ xát vào phần cằm hay cổ người dùng gây khó chịu. Miếng cao su này còn có tác dụng giúp cho mũ bảo hiểm được giữ một cách cố định hơn.Vì mỗi người sẽ có một kích cỡ đầu khác nhau nên phần quai cũng được thiết kế thêm một khớp để nới dây dài, ngắn tùy mỗi người. Ở một số loại mũ bảo hiểm còn được thiết kế thêm những lỗ thoáng khí để khi di chuyển sẽ làm không khí bên trong mũ thông thoáng, tránh cảm giác nóng bức cho người dùng.
Đối với Việt Nam, một nước nhiệt đới có khí hậu nóng quanh năm thì việc sử dụng những loại mũ bảo hiểm có lỗ thông gió hết sức thông dụng. Với khí hậu nóng cùng những đợt nắng nóng nên nón bảo hiểm còn có tên gọi vui là “nồi cơm điện”. Bởi vì thế những chiếc lỗ thông gió này chính là vị cứu tinh vào mùa hè nóng nực bức bối ở nước ta. Ngoài ra còn có nút bịt những lỗ thông gió này vào mùa mưa.
Có hai loại nón thông thường được nhiều người sử dụng là nón nửa đầu và nón trùm đầu. Nón nửa đầu có ưu điểm là có giá thành rẻ và trọng lượng nhẹ hơn so với nón trùm đầu. Vì thế nó được người dùng ưa chuộng và phổ biến hơn nhiều. Tuy nhiên nói về độ an toàn thì nón bảo hiểm trùm đầu vẫn có sự bảo vệ toàn diện hơn so với nón nửa đầu.
Mỗi chiếc mũ đều có ưu điểm riêng nên vẫn có người lựa chọn kiểu này và kiểu kia tùy theo sở thích của mình. Với xu hướng đa phong cách hiện nay thì mũ bảo hiểm không chỉ là một món đồ bảo vệ cơ thể mà nó còn thể hiện được phong cách của người dùng.
Bởi vì lẽ này nên thị trường mũ bảo hiểm ngày nay rất đa dạng từ kiểu dáng cho tới màu sắc. Đối với lứa tuổi trưởng thành thì thường sẽ có những màu sắc nhã nhặn và lịch sự. Còn với những em nhỏ thường là những chiếc mũ bảo hiểm có màu sắc bắt mắt, tạo hình sinh động cho các em thích thú và tập thói quen đội mũ bảo hiểm.
Mũ bảo hiểm còn được tăng thêm tiện ích cho người dùng khi đi ngoài nắng đó là phần lưỡi trai hay kính che bụi.Chúng ta nên trang bị cho mình kiến thức để bảo quản nón bảo hiểm một cách tốt nhất. Đầu tiên bạn nên tránh để cho mũ va đập quá nhiều vì sẽ khiến chất lượng sản phẩm giảm đi.
Có thói quen thường xuyên vệ sinh miếng lót bên trong để tránh tình trạng ẩm mốc vì mồ hôi. Đặc biệt bạn nên tránh việc đội chung mũ bảo hiểm với người khác vì có những bệnh về da đầu và vấn đề vệ sinh không hề an toàn. Không nên sử dụng những chất tẩy rửa mạnh để lau chùi mũ vì rất dễ làm hỏng mũ.
Theo như lời khuyến cáo của các nhà nghiên cứu thì chúng ta nên thay nón bảo hiểm mới sau 5 năm sử dụng. Mũ bảo hiểm chính là một người bạn luôn đồng hành cùng bạn trên mỗi cung đường đi học và làm việc. Vì vậy ta cần chọn những chiếc mũ bảo hiểm đảm bảo chất lượng cho bản thân. Bạn cần tỉnh táo để chọn cho mình chiếc mũ bảo hiểm chất lượng.
Tránh việc chọn phải mũ bảo hiểm đều để rồi tiền mất tật mang. Đối với sản phẩm mũ bảo hiểm trong nước thì sẽ có dấu CS đại diện cho việc phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam. Còn mũ được nhập khẩu từ nước ngoài dù không có dấu CS nhưng sẽ phải có tem kiểm tra. Bởi vậy người tiêu dùng cần kiểm tra kĩ những thông số trên mũ như địa chỉ sản xuất, ngày sản xuất, cỡ mũ, hướng dẫn sử dụng.
Những thông tin này phải được in một cách chắc chắn, rõ ràng. Chiếc mũ bảo hiểm gắn liền với sự an toàn của bản thân chúng ta và người thân nên bạn hãy sáng suốt khi lựa chọn nhé.
Thuyết minh về mũ bảo hiểm – Mẫu 4Có thể nhận thấy được rằng chính trong cuộc sống, hình ảnh người tham gia giao thông với chiếc mũ bảo hiểm không còn quá xa lạ với chúng ta. Việc chúng ta tham gia giao thông thì nên đội mũ bảo hiểm cũng là một trong những nội quy bắt buộc mà nhà nước chính quyền ban hành trong điều luật giao thông. Chính vì điều này mà chiếc mũ bảo hiểm luôn luôn có một vai trò vô cùng quan trọng và nó đem lại rất nhiều lợi ích to lớn.
Nói riêng về mặt cấu tạo thì mũ bảo hiểm là loại mũ đặc biệt dùng bảo vệ đầu của con người khi bị tai nạn giao thông hay bị va chạm quá mạnh. Khi có chiếc mũ bảo hiểm cũng sẽ giúp bạn an toàn hơn khi tham gia giao thông. Mũ bảo hiểm thường cấu tạo bằng ba phần đó chính là phần vỏ ngoài, lớp lót trong và các phụ kiện đi kèm theo (quai mũ, kính chắn gió…).
Nói về phần vỏ mũ được làm từ vật liệu nguyên sinh, có độ bền cao. Tiếp theo đó chính là phần mũ được làm từ các loại nhựa tổng hợp chứ nó không phải kim loại. Với phần vỏ này thường được làm gia công bằng sợi cacbon tăng độ bền và độ nhẹ cho chiếc mũ bảo hiểm để giúp người đội cũng sẽ cảm nhận thấy được sự thoải mái hơn.
Với lớp lót bên trong mũ được bằng loại xốp cao cấp để có thể nén tỉ trọng cao giúp mũ không bị ảnh hưởng khi có tác động lực mạnh từ bên ngoài. Chính từ phần bên trong mũ được thiết kế những khe thông gió để người đội cũng cảm nhận được sự thoải mái hơn. Đối với những lỗ thông gió tưởng chừng như đơn giản như vậy thôi nhưng cũng phải được thiết kế khoa học để người đội có cảm giác thông thoáng, không gây ngứa ngáy da đầu một chút nào.
Ngay ở phần phía dưới nón chính là quai nón, chính điều này cũng sẽ có tác dụng giữ cho nón chắc và giữ chặt vào đầu người khi tham gia an toàn giao thông kể cả khi người sử dụng có bị té ngã hay chịu một lực tác động khác cho dù có mạnh thì vẫn cứ giữ chặt đầu người để giảm thiểu nhất những rủi ro không đáng có va chạm vào đầu. Có thể nói đây chính là một loại dây dù vừa rẻ mà cũng vừa bền. Nhiều chiếc mũ cũng được thiết kế với dây da cao cấp hơn.
Nói về cách sử dụng mũ bảo hiểm rất đơn giản vì người ta chia sợi dây thành 2 phần gắn lại với nhau bằng một chiếc móc khóa nhựa rất chắc. Thêm với đó chính là một miếng cao su hay nhựa dẻo được gắn trên sợi dây, sợi dây này hoàn toàn có thể di động được để phù hợp với vị trí cằm. Chúng ta nhận thấy được ở trên sợi dây đó còn có một khớp nới để người dùng điều chỉnh tùy ý, điều này giúp nón giữ chặt với đầu và phù hợp với người sử dụng an toàn hơn rất nhiều.
Hiện trên thị trường thì cũng xuất hiện rất nhiều loại mũ nên cũng có đa dạng những hình dạng. Tuy nhiên có lẽ phổ biến nhất là 2 loại mũ bảo hiểm thông dụng đó chính là phần nón nửa đầu và nón trùm hết đầu. Đặc điểm của chiếc nón trùm hết đầu khá cồng kềnh, thế nhưng ưu điểm của nó lại có độ an toàn vô cùng tốt.
Vì bao bọc quanh đầu nên nó có khả năng chống bụi, có mặt kính khá an toàn phía trước không hại mắt người nhìn. Tuy nhiên, một thực tế đáng nói là chiếc mũ này thì không được sử dụng phổ biến mà chỉ được cảnh sát, dân đi phượt yêu thích. Với loại mũ thứ hai đó là loại mũ nửa đầu được sử dụng phổ biến nhất, tuy là loại mũ không có được độ an toàn cao như mũ trùm đầu nhưng lại tiện dụng cũng như tạo được cảm giác thoải mái cho người sử dụng.
Thực sự thì đối với một đất nước mà hầu hết các phương tiện giao thông là xe máy như Việt Nam thì chúng ta dễ dàng có thể nhận thấy được thị trường và mặt hàng về mũ bảo hiểm khá phát triển và cũng vô cùng cần thiết đối với con người. Khi đời sống ngày càng một nâng cao, nhà sản xuất cũng vì thế mà cho ra rất nhiều loại mũ bảo hiểm khác nhau vừa đẹp vừa đáp ứng đúng thị hiếu của người dùng.
Song hành cùng với những loại mũ bảo hiểm an toàn thì sẽ vẫn còn tồn tại những loại mũ bảo hiểm giả. Thậm chí những chiếc mũ bảo hiểm này còn gây nguy hại cho người đội vì dễ vỡ, chỉ cần tác động nhẹ là cũng có thể vỡ gây ảnh hưởng đến người đội.
Quý khách hàng lưu ý khi mua nón bảo hiểm chất lượng phải là nón có tem chống giả được dán bởi bộ kiểm định chất lượng. Trường hợp nếu như là hàng nhập khẩu từ nước ngoài thì phải có tem kiểm tra kỹ lưỡng. Thêm với đó trên mũ thường có những thông số về các loại như kích thước, ngày sản xuất, địa chỉ sản xuất.
Việc bảo quản và sử dụng chiếc mũ một cách lâu bền nhất mỗi người cần có những lưu ý cẩn thận và khi sử dụng phải để nơi khô ráo và tránh nơi ẩm mốc. Vì khi đó lớp vải trong mũ rất dễ bị ẩm mốc và gây ra một mùi hôi vô cùng khó chịu. Chúng ta không nên đội chung mũ với người khác mà hãy có cho mình một chiếc mũ riêng vừa đảm bảo phù hợp với mình vừa tránh được những mùi hôi, bẩn hay đơn giản không hợp với phong cách của bạn.
Thực sự thì chiếc mũ bảo hiểm như người bảo hộ cho chúng ta khi bước ra ngoài, đồng thời chiếc mũ cũng được mệnh danh là một thiên thần hộ mệnh mang đến sự an toàn cho người đội. Chúng ta hãy chọn lựa một chiếc mũ bảo hiểm thật đẹp và thật phù hợp cho riêng mình và để có thể bảo quản được tính mạng của chính mình khi tham gia giao thông.
Thuyết minh về mũ bảo hiểm – Mẫu 5“Mũ bảo hiểm” viết tắt của là “Mubahi” là “một vật dụng bảo vệ” phần đầu của người tham gia giao thông. Mũ bảo hiểm có cấu tạo đặc biệt theo những quy tắc, tiêu chuẩn riêng. Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội khi có va đập lúc đua xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa với nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là nồi cơm điện.
Tuy nhiên, theo nghĩa rộng hơn, mũ bảo hiểm còn chỉ đến những loại mũ sắt, mũ cối trong quân đội, các loại mũ bảo vệ người chơi thể thao (bóng bầu dục, bóng chày, khúc côn cầu, trượt tuyết, hay các loại mũ bảo hộ lao động xây dựng, khai mỏ.
Lịch sử hình thành và phát triển của Mũ Bảo Hiểm là gì? Theo truyền thống, mũ bảo hiểm không được làm bằng kim loại mà bằng nhựa tổng hợp như ABS,HDPE nhưng những thập niên gần đây, chất liệu được gia cường bằng Sợi Carbon để có độ bền cao và nhẹ hơn.
Sự thúc đẩy mạnh mẽ phong trào, thậm chí bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi điều khiển các phương tiện hai bánh đã từng là đề tài tranh luận nóng bỏng của nhiều người và những nhà khoa học trong thập niên 1990. Đến nay, nhiều quốc gia đã áp dụng luật này. Lịch sử ghi nhận mũ bảo hiểm (Mũ bảo hiểm) xuất hiện cùng thời với chiến tranh. Trước những loại vũ khí như dao, kiếm, mác, quân đội của người Assyria, Ba Tư, đã tìm ra một vật dụng có thể bảo vệ đầu của binh lính: đó là chiếc mũ.
Ban đầu, mũ được làm bằng da rồi dần dần được rèn sắt. Đến thời người Hy Lạp tham chiến, họ chế tạo ra chiếc Mũ bảo hiểm bằng đồng, có chóp nhọn đặc trưng. Mũ được gia cố chắc chắn thêm như có phần che chắn cho mặt (chỉ để hở một khoảng nhỏ để nhìn và thở), chiều dài mũ cũng được tăng thêm – mũ trùm kín cả đầu.
Lịch sử hình thành và phát triển của Mũ Bảo Hiểm là gì? Người La Mã phát triển hình dạng Mũ bảo hiểm thêm một bậc nữa, đó là chế tạo mũ cho binh lính riêng và mũ cho các võ sĩ giác đấu riêng. Phần vành mũ được nới rộng có phần lưỡi trai đằng trước để cải thiện tầm nhìn, tránh trường hợp binh sĩ bị lóa sáng.
Vào thế kỉ 16-17, chiếc mũ được làm bằng thép nhẹ như thời trung cổ nhưng vành rộng hơn. Thế kỷ 18-19, tiến bộ trong công nghiệp vũ khí đánh dấu sự thoái trào của kiếm và giáo mác đồng thời các loại súng trường, súng lục lên ngôi. Mũ bảo hiểm ít được trọng dụng hơn trước, đa phần chỉ được sử dụng bởi kỵ binh. Tuy nhiên đến chiến tranh thế giới thứ nhất, mũ làm từ thép lại được coi là thiết bị bảo vệ cho người lính, chống lại các mảnh kim loại văng ra mỗi khi pháo nổ.
Năm 1914, người Pháp chính thức coi Mũ bảo hiểm là trang bị tiêu chuẩn của người lính. Lần lượt, Anh, Đức và các nước Châu Âu còn lại cũng theo gương. Ngày nay, Mũ bảo hiểm dần dần thâm nhập vào đời sống chứ không đơn thuần là trang bị của quân đội. Mũ bảo hiểm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như hàng không vũ trụ, quân đội, thể thao. Công nhân và kỹ sư vào phân xưởng lúc nào cũng phải đội mũ. Các vận động viên nhiều môn thể thao như đấu kiếm, võ thuật, bóng bầu dục rất cần Mũ bảo hiểm để an toàn.
Người tham gia giao thông trên xe máy, xe đạp được khuyến cáo phải đội mũ bảo hiểm. Tại Việt Nam, từ ngày 15 tháng 12 năm 2007 bắt đầu bắt đội mũ bảo hiểm đối với người ngồi trên mô tô xe máy trên mọi tuyến đường. Cấu tạo: Lớp vỏ ngoài làm từ nhựa cứng. Trong là đệm bảo vệ được làm bằng xốp,bảo vệ đầu khi va chạm. Quai cài và có miếng giữ cằm để cố định mũ. Kính chắn gió làm từ nhựa trong suốt.
Tác dụng: Giảm va đập và hấp thu chấn động do va đập. Giảm nguy cơ gây chấn thương sọ não. Mũ bảo hiểm là vật dụng nhằm mục đích bảo vệ phần đầu của người đội khi có va đập lúc đua xe đạp, đi xe máy, ô tô, cưỡi ngựa với nghĩa này, ở Việt Nam, người ta gọi bóng gió là nồi cơm điện.
Thuyết minh về chiếc nón bảo hiểmĐi trên đường phố, hình ảnh những người đi xe máy, đi xe đạp điện đội mũ bảo hiểm đã trở nên quen thuộc đối với chúng ta. Trước đây, mũ bảo hiểm không được dùng phổ biến như bây giờ. Tuy nhiên, từ ngày Nhà nước đưa luật đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông vào áp dụng thì người dân đã rất tuân thủ chấp hành. Chiếc nón bảo hiểm có gì mà phải đưa vào luật để mọi người phải tuân theo như vậy?
Khác với những loại mũ khác, mũ bảo hiểm có nét đặc biệt riêng. Đúng như tên gọi của nó, mũ bảo hiểm có công dụng bảo vệ cho đầu của chúng ta an toàn khi tham gia giao thông. Cấu tạo của một chiếc mũ bảo hiểm đạt chuẩn gồm có 3 lớp. Đầu tiên là lớp vỏ cứng ở bên ngoài được làm từ một loại nhựa cao cấp chống va đập. Nhờ vậy mà chiếc mũ mới có tác dụng bảo vệ tốt. Lớp thứ hai là một miếng xốp. Miếng xốp này dùng để giảm chấn động cho đầu trong trường hợp không may có sự va đập mạnh. Lớp thứ ba cũng là lớp trong cùng là một lớp vải mềm học bên ngoài lớp xốp. Chúng không chỉ mang lại tính thẩm mĩ cho mũ mà còn là bộ phận làm thoáng khí và tạo cảm giác êm ái cho người đội mũ.
Ngoài các bộ phận trên, một bộ phận không thể thiếu nữa của nón bảo hiểm đó chính là quai đeo. Chiếc quai đeo này thường được làm bằng vải gai dù và có gắn vào khóa bấm bằng nhựa. Chúng được gắn chắc chắn với phần thân mũ, nhờ vậy mà người đội có thể giữ được chiếc mũ trên đầu mình. Chiếc dây này được làm theo độ dài khác nhau. Người sử dụng có thể tùy chỉnh dây sao cho vừa vặn với mình nhất. Phần thân mũ cũng vậy, chúng được thiết kế với nhiều kiểu dáng và kích thước khác nhau để phù hợp với đầu của từng người. Chẳng hạn như các em nhỏ sẽ đội những chiếc nón nhỏ. Người lớn thì đội những chiếc nón lớn hơn.
Về hình dáng của nón bảo hiểm, chúng ta dễ nhận thấy nón có hai loại chính. Một loại là mũ bảo hiểm nửa đầu, một loại là mũ bảo hiểm cả đầu. Hình dáng này cũng là để phù hợp với mục đích sử dụng của mọi người. Với những người di chuyển quãng đường ngắn thì dùng mũ nửa đầu còn những người di chuyển quãng đường dài thì nên dùng mũ đội cả đầu cho an toàn.
Những loại mũ cả đầu thường có thêm 2 đến 3 lỗ hầm gió. Nhờ vậy mà khi di chuyển, gió có thể lùa vào giúp người dùng có sự thông thoáng. Đối với đất nước khí hậu nhiệt đới như ở Việt Nam thì những lỗ hầm gió như thế này là rất quan trọng. Nhiều người vẫn thường gọi vui mũ bảo hiểm cả đầu là cái nồi cơm điện.
Ban đầu, mũ bảo hiểm được làm khá thô sơ, màu sắc và kiểu dáng cũng không đa dạng như bây giờ. Càng ngày, người ta càng cải tiến nhiều hơn để mũ bảo hiểm trở nên thời trang hơn. Những chiếc mũ được gắn thêm kính, tạo hình lưỡi trai hay gắn decan ở trên mũ. Nhờ vậy mà mọi người cũng không còn ghét mũ bảo hiểm như trước nữa.
Mặc dù vậy khi đi ra đường thi thoảng chúng ta vẫn trông thấy những người đi xe máy mà không chịu đội mũ bảo hiểm, đội mũ nhưng không cài quai, đội những chiếc mũ không được cấu tạo đủ tiêu chuẩn chất lượng hoặc đội mũ bảo hộ lao động. Đây đều là những hành vi sai trái, thiếu hiểu biết đáng bị lên án. Chúng ta đội mũ bảo hiểm không phải vì chống đối lại pháp luật mà chúng ta đội mũ bảo hiểm cho chính bản thân mình. Có biết bao nhiêu vụ tan nạn thương tâm cũng chỉ vì không đội mũ bảo hiểm mà ra. Chẳng nhẽ chúng ta lại đùa cợt với chính sinh mạng của mình như vậy?
Từ nay, chúng ta hãy nhìn nhận về nón bảo hiểm một cách đúng đắn hơn. Hãy để chúng đồng hành cùng với chúng ta mỗi khi ra khỏi nhà. Và hãy để nón bảo hiểm bảo vệ cho cái đầu của chính chúng ta.
Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Vịnh Hạ Long 4 Dàn Ý &Amp; 18 Bài Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8
Vịnh Hạ Long thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, được hình thành do sự vận động của đá và nước, thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Mời các em cùng theo dõi bài viết để nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh của mình.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long hay nhất
Dàn ý thuyết minh về Vịnh Hạ Long (4 mẫu)
Thuyết minh Vịnh Hạ Long ngắn gọn
Thuyết minh danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long hay nhất (16 mẫu)
Dàn ý thuyết minh về Vịnh Hạ Long1. Mở bài
Giới thiệu về Vịnh Hạ Long.
2. Thân bài
Vị trí địa lý: là vịnh nhỏ thuộc khu vực vịnh Bắc Bộ với đường bờ biển dài 120 km bao gồm nhiều đảo lớn nhỏ
Tổng diện tích: 434km2 với 775 hòn đảo, được bảo vệ bởi vùng đệm rộng lớn có diện tích 1.119km2.
Tên gọi: thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử
Truyền thuyết về Vịnh: Tương truyền khi đất nước bị xâm lăng nên Ngọc Hoàng đã sai mẹ con Rồng hạ phàm diệt giặc, giặc tan mẹ con Rồng ở lại trần thế và chỗ hai mẹ con gieo mình xuống đã hình thành nên vịnh.
Đặc điểm các đảo, hang động
Hệ thống sinh thái, sinh vật: hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, hệ sinh thái biển – đảo ven bờ
Giá trị lịch sử: Xuất hiện dấu tích của các nền văn hóa cổ cách đây hàng nghìn năm như văn hóa Soi Nhụ, văn hóa Cái Bèo và văn hóa Hạ Long.
Giá trị kinh tế: Là điểm điểm du lịch thu hút khách trong và ngoài nước
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của Vịnh Hạ Long
Thuyết minh Vịnh Hạ Long ngắn gọnQuảng Ninh là một trong những tỉnh có nhiều di sản bậc nhất nước ta. Toàn tỉnh hiện có 632 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong đó, có 5 khu di tích quốc gia đặc biệt (Vịnh Hạ Long, Bạch Đằng, Yên Tử, Khu di tích Nhà Trần tại Đông Triều và Đền Cửa Ông – Cặp Tiên). Trong đó, Vịnh Hạ Long là di sản nổi bậc nhất trong quần thể các di sản tỉnh Quảng Ninh.
Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo ở phía Đông Bắc của Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Bắc và Bắc kéo dài từ huyện Yên Hưng, qua thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, đến hết phần biển đảo huyện Vân Đồn; phía Đông và phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ; phía Tây Nam giáp đảo Cát Bà (thành phố Hải Phòng).
Theo các nhà khoa học, vùng Hạ Long và vùng rìa bờ, đảo phụ cận của vịnh, bao gồm nhiều hệ tầng trầm tích lục nguyên và Cacbonat, có tuổi từ nguyên đại Cổ sinh đến Tân sinh. Nhiều hệ tầng trầm tích ở khu vực này chứa đựng các vết tích cổ sinh vật dưới các dạng hoá thạch khác nhau, trong đó có những nhóm ngành động, thực vật đã tuyệt diệt hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn trên trái đất.
Thạch nhũ trong hang động trong khu Vịnh có tuổi trẻ hơn các hang động. Nước mưa theo các khe nứt trên trần hang động và vách chảy xuống, trên đường đi chúng hoà tan, bào mòn đá vôi và lắng đọng thành nhũ đá ở trần, măng đá ở nền…
Với bàn tay kiến tạo tài tình của thiên nhiên, Vịnh Hạ Long hiện lên với vẻ đẹp rực rỡ, kì bí bậc nhất nước ta. Hàng ngàn hòn đảo, hàng chục hang động đẹp đã tạo nên giá trị thẩm mỹ của Vịnh. Vẻ đẹp của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố: đá, nước và bầu trời. Hệ thống đảo đá ở Hạ Long muôn hình vạn trạng quyện với trời biển, tạo ra một bức tranh thủy mặc. Phía trong những đảo đá lớn lại hấp dẫn bởi những hang động đẹp đẽ, kỳ lạ. Hang Đầu Gỗ gợi cảm giác choáng ngợp, với những nhũ đá muôn hình dáng vẻ. Động Thiên Cung như một đền đài hoành tráng, mỹ lệ. Hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung, với vô số nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu. Hang Sửng Sốt đẹp đến bất ngờ, với nhũ đá mang hình hài của gà rừng, cóc, rồng, thác nước, cùng với nhiều hình hài khác, như mở ra một thế giới cổ tích. Những hang động như Tam Cung, Trinh Nữ, Ba Hang, Tiên Long,… mỗi hang có những vẻ đẹp độc đáo, kỳ thú.
Tổng số loài thực vật sống trên các đảo ở vịnh Hạ Long khoảng trên một nghìn loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau đã được tìm thấy, như các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở cửa hang hay khe đá.
Những kết quả nghiên cứu, khảo cổ học và văn hóa học cho thấy, sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập được những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau, bao gồm văn hóa Soi Nhụ (trong khoảng 18.000 – 7.000 năm trước Công nguyên), văn hóa Cái Bèo (7.000 – 5.000 năm trước Công nguyên) và văn hóa Hạ Long (cách ngày nay khoảng từ 3.500 – 5.000 năm). Phương thức sống chủ yếu của chủ nhân Soi Nhụ là “bắt sò ốc, có cả hái lượm hoa quả, đào củ, rễ cây”, biết bắt cá mà chưa có nghề đánh cá.
Hiện nay, vịnh Hạ Long còn là một khu vực phát triển năng động, có tiềm năng lớn về du lịch, nhờ những điều kiện và lợi thế sẵn có ở khu vực vùng biển Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt Nam nói chung.
Từ hơn 500 năm về trước, trong bài thơ “Lộ nhập Vân Đồn”, Nguyễn Trãi đã lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là “Kỳ quan đá dựng giữa trời cao”. Cùng với vịnh Nha Trang của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất trên thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm 2003.
Vịnh Hạ Long là khu vực có giá trị nổi bật toàn cầu, tiêu biểu nhất là các giá trị về thẩm mỹ, khoa học, lịch sử, khảo cổ… Năm 1962, khu vực vịnh Hạ Long được công nhận là di tích thắng cảnh cấp quốc gia. Năm 1994, vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới về giá trị thẩm mỹ và được tái công nhận lần thứ 2, với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất – địa mạo vào năm 2000 đã biến Vịnh Hạ Long đã thực sự trở thành thương hiệu của du lịch Quảng Ninh, là niềm tự hào của Nhân dân các dân tộc tỉnh Quảng Ninh nói riêng, của cả nước nói chung và là điểm đến được lựa chọn hàng đầu của du khách trong nước và quốc tế.
Thuyết minh danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ LongNước ta có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Phong Nha – Kẻ Bàng, Sapa,…. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Vịnh Hạ Long, nơi đây đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Nó được hình thành do sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lí được hoàn thành sau hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi.
Được tạo thành là như vậy nhưng nơi đây gắn liền với những truyền thuyết xa xưa được dân ta kể lại, khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc.
Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt.
Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ.Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc.
Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Nói đến vịnh Hạ Long, ta không thể không nhắc đến vẻ đẹp mây trời cảnh sắc non nước hữu tình, những hòn đảo, dãy núi nhỏ xen kẽ nhau nhấp nhô trong làn nước xanh biếc mềm mại, tạo nên một bức tranh sống động, nên thơ.
Các đảo trên vịnh Hạ Long qua bàn tay khéo léo, sáng tạo của mẹ thiên nhiên mà mỗi đảo lại cho ta thấy được một vẻ đẹp riêng biệt, không đảo nào giống đảo nào.
Đảo thì giống như hình con cóc đang ngồi xổm giữa biển nước (Hòn Con Cóc), đảo lại có hình thù như một đôi gà, một trống một mái (Hòn Trống Mái), có đảo lại như một ông lão ngồi câu cá (Hòn Lã Vọng),… muôn hình vạn trạng. Không chỉ vậy, điểm thu hút bậc nhất của vịnh Hạ Long phải kể đến những hang động trải qua hàng ngàn, hàng triệu năm kiến tạo, khoác lên mình vẻ đẹp bí ẩn, lung linh gợi cho du khách sự tò mò muốn khám phá, tìm hiểu chúng.
Đầu tiên phải kể đến hang Sửng Sốt, nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh Hạ Long, trong đảo Bồ Hòn, là hang động rộng và đẹp nhất vịnh Hạ Long, đường lên hang Sửng Sốt luồn dưới những tán lá rừng, với những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu.
Ðộng được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn thứ nhất rộng thênh thang với trần hang được phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá.
Ngăn 2 cách biệt với ngăn 1 qua một lối đi hẹp. Bước vào lòng ngăn này, động mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng ngăn rộng có thể chứa được hàng ngàn người. Trong lòng ngăn 2 của hang Sửng Sốt có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng: cạnh lối ra vào là khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang có những ao hồ nhỏ như vết chân ngựa Gióng.
Trên dãy đảo Bồ Hòn, có hai hang động mang một sự tích về một tình yêu trai gái nhưng không thành: Hang Trống và hang Trinh Nữ. Ấn tượng đầu tiên khi bước vào hang Trinh Nữ là hình ảnh bức tượng được làm bằng đá về một người con gái, nằm xõa mái tóc dài, mắt hướng ra khơi xa, đôi mắt gợi lên một nỗi buồn như đang trong chờ một điều gì đó nhưng tuyệt vọng.
Hang Trống Hang Trống nằm đối diện Hang Trinh Nữ, có hai cửa hang khá rộng và thông nhau theo hướng Đông – Tây qua 2 vách núi. Bên trong hang có những chùm thạch nhũ trắng bạc, rủ xuống lòng hang và còn có bức tượng chàng trai hóa đá đang quay mặt về phía Hang Trinh Nữ.
Tiếp đến là động Thiên Cung, nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, bước vào cửa động Thiên Cung lòng động đột ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ lệ.
Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem.
Đó là 4 cột trụ to lớn giữa động mà từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành; là những thạch nhũ mang hình tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông thú đang dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng vạn năm.
Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Cùng nằm trên đảo Canh Độc, ở vị trí gần nhất với động Thiên Cung là hang Đầu Gỗ , một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi Hang Đầu Gỗ gắn liền với một giai đoạn hào hùng của lịch sử, của thời đại Đông A, với chiến thắng của quân dân nhà Trần năm 1288, đánh bại hoàn toàn quân hiếu chiến Mông Nguyên sau ba lần mang quân xâm lược nước ta,mang lại hòa bình cho dân tộc.
Hiện các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động.
Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn chính. Ngăn thứ nhất gồm hệ thống nhũ đá có nhiều hình ảnh quen thuộc với cuộc sống: sư tử, trăn, rùa, và thậm chí cả hình ảnh đôi gà chọi,….
Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp, bắt đầu bằng một bức tranh hoành tráng – hình ảnh những hòn đảo đá lô nhô trên sóng nước cũng được khắc hoạ rõ nét.
Ngăn thứ 3 – là hình ảnh những cột đá khổng lồ, vừa không thô nhám, cứng nhắc, vừa xinh xắn, mềm mại. Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Định lên thăm và cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và hang Ðầu Gỗ nói riêng. Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động tuy chữ đã bị mài mòn.
Ngoài ra, vịnh còn có rất nhiều hang động đẹp mà tràn đầy bí ẩn, tên gọi của chúng hầu hết xuất phát từ những truyền thuyết, lịch sử như: hang Trinh Nữ, hang Trống, hang Luồn, động Kim Quy,…góp vào bức tranh vịnh những gam màu rực rỡ, đa dạng, gợi sự tò mò đến với du khách để tìm hiểu và khám phá vẻ đẹp, cội nguồn sâu xa của tên gọi.
Có thể nói vịnh Hạ Long chính là chứng nhân của lịch sử bởi nó gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong thời kỳ dựng nước và giữ nước, lưu giữ những bút tích của một thời đại quân chủ chuyên chế , những trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người Việt Nam từ thời tiền sử.
Không chỉ vậy, vịnh Hạ Long có giá trị rất lớn về mặt du lịch trong việc quảng bá hình ảnh và vẻ đẹp của đất nước ta đến với thế giới và được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mỹ và giá trị địa chất- địa mạo, có giá trị đa dạng sinh học với hệ sinh thái điển hình của vùng biển nhiệt đới và có tiềm năng khai thác về nguồn thủy hải sản phong phú.
Ta có thể thấy vịnh Hạ Long chứa đựng một vẻ đẹp tiềm tàng, đa dạng mà bí hiểm, như một người thiếu nữ tuổi mới lớn, nếu được phát triển đúng cách, vẻ đẹp đó sẽ đạt đến đỉnh cao, thu hút mọi ánh nhìn.
Người Việt Nam ta tự hào khi có được một di sản mà thiên nhiên ban tặng để mà trân trọng gìn giữ cái quà tặng quý báu ấy, càng tự hào hơn khi vịnh Hạ Long nhận được sự thừa nhận của bạn bè quốc tế, đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng khi du khách đến Việt Nam.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long hay nhất Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 1Kí ức của con người luôn ghi dấu những điều đẹp nhất về quê hương, gia đình, xứ sở của họ, nơi họ đã sinh ra và lớn lên. Lớn lên, đi xa vào đời, đi đến đâu cũng đều mang trong mình màu sắc của nơi ta đã lớn lên, chả phong cảnh nơi đó. Như những người con quê tôi, phóng khoáng và dịu dàng như nước, như trời nơi Vịnh Hạ Long
Vịnh Hạ Long thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh, là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Đông Bắc Bộ, thuộc bờ biển Đông Bắc Việt Nam. Phải mất hàng triệu năm, đá xô sóng, sóng xô gió, vận động không ngừng nghỉ mới tạo nên một tác phẩm địa lí hoàn mỹ như thế, rộng lớn như thế, xanh rờn như thế. Toàn bộ vịnh có diện tích khoảng 1553 km vuông, có tới 1960 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau, phần lớn trong đó là các đảo đá vôi.
Vịnh Hạ Long nổi tiếng bởi cảnh non nước hữu tình của nó. Nếu để máy quay trên cao nhìn xuống, Hạ Long như một bức gấm xanh khổng lồ được thêu bằng nước và đá. Tất cả đều do một tay Tạo hóa sắp đặt và tạo thành. Những hình dáng uốn lượn của nước, những hòn đảo, những núi đá vôi kì vĩ như những tác phẩm điêu khắc được tạo ra từ bàn tay người nghệ nhân. Hòn đảo như hình người đang ngóng về đất liền kia là hòn Đầu Người, đảo giống như ngư ông đang ngồi đánh cá kia là hòn Lã Vọng, đảo như cánh buồm đang vươn gió ra khơi kia là hòn Cánh Buồm, và đặc biệt là hòn đảo nổi tiếng nhất như hình ảnh hai con gà đang âu yếm – hòn Trống Mái đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho những con tem, bì thư,…
.âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hóa khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 2Sáu mươi tư tỉnh thành, mỗi tỉnh thành đều mang một nét đặc trưng riêng, một bản sắc riêng và tất nhiên sẽ có những danh lam thắng cảnh riêng. Tôi may mắn được sinh ra trên vùng đất Quảng Ninh xinh đẹp nơi có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Nhưng giờ đây, Quảng Ninh lại sở hữu một địa danh có lẽ khi nhắc tới bạn bè quốc tế thì họ đều biết đó là địa danh của Việt Nam: vịnh Hạ Long.
Theo truyền thuyết xa xưa, khi thấy đất nước bị giặc ngoại xâm lăng thì Ngọc Hoàng đã sai nhà rồng xuống trần gian giúp dân đánh giặc. Tuy nhiên sau khi đánh tan giặc thì nhà rồng không trở về trời mà ở lại trần thế. Vị trí nhà rồng đáp xuống nơi đây, phun ra hàng ngàn châu ngọc và tạo thành Vịnh Hạ Long bây giờ.
Về mặt địa lý, vịnh Hạ Long là một phần của vịnh Bắc Bộ, nằm ở vũng Sõng Bắc Việt Nam. Phía Tây Nam giáp với quần đảo Cát Bà, phần giáp giáp biển dài 120 km. Tổng diện tích của vịnh khoảng 1.500 km2, gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có gần 1.000 đảo đã được đặt tên. Tử bến cảng Hạ Long, tàu hoặc thuyền buồm của công ty du lịch sỗ đưa du khách vào cuộc hành trình ngao du sơn thuỷ.
Các đảo trong vịnh có hai loại chính là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở hai vùng chính là vịnh Bái Tử Long và vịnh Hạ Long, có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 – 280 triệu năm. Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu thì khoảng nửa tỷ năm về trước, một phần rìa lục địa châu Á bị sụp xuống, nước biển tràn vào thành vịnh. Những núi đá vôi bị nước biển nhấn chìm biến thành đảo đá. Thời gian, nước biển cùng với mưa gió đã bào mòn núi đá, tạo ra nhiều hang động.
Cách thành phố Hạ Long khoảng 8km là đảo Vạn Cảnh hay còn gọi là đảo Canh Độc. Đảo Vạn cảnh cao 189 mét, hình dáng giống như một chiếc ngai vua. Đảo có hai hang động tuyệt đẹp là hang Đầu Gỗ nằm chênh vênh trên cao và động Thiên Cung kì bí cách nhau khoảng 100m và ăn thông với nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn. Du khách vào thăm động Thiên Cung sẽ bị quyến rũ bởi vẻ đẹp lộng lẫy và đa dạng của những kiệt tác chỉ có thể được làm ra từ bàn tay Tạo hoá.
Từ trên vòm động, vô vàn nhũ đá rủ xuống và trên vách động có nhiều hình thù kỳ lạ. Có những nhũ đá trông giống như hai vị thần Nam Tào, Bắc Đẩu hoặc Tiên nữ đang múa hát. Có khối mang hình người, hình chim, hoa, muông thú rất sống động… Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước sang hang Đầu Gỗ hay còn gọi là hang Dấu Gỗ. Đây là chứng tích ghi lại chiến công năm xưa của vị tướng tài ba Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đã chỉ huy quân sĩ chôn cọc gỗ lim dưới lòng sông Bạch Đằng, đảm thùng đoàn thuyền tiếp viện lương thực của quân Mông – Nguyên. Cửa hang ở lưng chừng núi, bên trong hang có nhiều trụ đá lởm chởm với nhiều hình dạng. Vách hang thẳng đứng, lòng hang tối mờ, sâu thẳm, bất chợt có khoảng sáng hiếm hoi rọi qua giếng trời trên, trần động, cảnh vật hiện ra mờ mờ ảo ảo. Đứng trước cửa hang Đầu Gỗ, du khách phóng tầm mắt nhìn xuống bến thuyền, tha hổ ngắm nhìn trời mây, non nước. Những con thuyền dập dềnh soi bóng trên mặt biển trong xanh. Tất cả tạo thành bản tình ca bất tuyệt của thiên nhiên với đủ cung bậc bâng khuâng, trữ tình. Ngoài hai hang động trèn, du khách còn được tham quan các hang động khác cũng đẹp và quyến rũ không kém như hang Bồ Nâu, Trinh Nữ, Mê Cung, Hoa Cương…
Thú vị vô cùng là lúc con thuyền lướt sóng đưa du khách thăm rừng đảo đá. Gió từ biển Đông thổi vào hoà quyện với hơi lạnh từ các dãy núi đá đưa mùi hương thơm ngát của các loài hoa đang nở rộ. Không khí thật trong lành và dễ chịu. Thoạt nhìn, tưởng chừng rừng đảo đá âm u, đơn điệu sẽ làm cho khách tham quan e ngại, nhưng càng đến gần, vẻ đẹp của từng hòn đảo càng hiện ra rõ nét. Một thế giới của các loài vật hoá đá với những tên gọi: hòn Đại Bàng, hòn Rồng, hòn Con Chó Gác Biển, hòn Yên Ngựa, hòn Con Cóc, hòn Con Mối… Rời đảo Đầu Người, đảo ông Lã Vọng… Có đảo chạy dài nhấp nhô như bức tường thành chắn sông.
Bàn tay điêu khắc kỳ tài của tạo hoá đã làm cho cảnh sắc Hạ Long không chỉ đẹp đẽ mà còn phong phú và đa dạng. Sự kì vĩ của núi đá nối liền với sự dịu dàng, mát mẻ của sóng nước tạo ra vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc, cuốn hút hồn người.
Vịnh Hạ Long còn làm say mê các nhà nghiên cứu sinh vật học, vì nơi đây tập trung nhiều hệ sinh thái như rừng ngập mặn, rừng cây nhiệt đới với hàng ngàn loài động vật trên rừng, dưới biển. Đến thăm Hạ Long, du khách Không chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp của rừng, của biển mà còn suy ngẫm về một truyền thống lịch sử rất đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Trên vùng biển Đông Bắc nước ta, vịnh Hạ Long như một viên ngọc bích khổng lồ phản ánh vẻ đẹp kì diệu và vĩnh hằng của thiên nhiên.
Và vào ngày 17-12-1994, tại Thái Lan, Hội đồng Di sản Thiên nhiên Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên của toàn nhân loại.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 3Dải đất hình chữ S không chỉ là quốc gia có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, tinh thần dân tộc kháng chiến mà thiên nhiên ưu ái cho nhiều cảnh quan, danh lam thắng cảnh hùng vĩ, trong đó phải nhắc đến vịnh Hạ Long nơi truyền thuyết rồng đáp xuống. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa của thế giới.
Vịnh Hạ Long hòn đảo nằm ở phía Tây Vịnh Bắc Bộ, hiện nay thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ Long có gần 2000 hòn đảo lớn nhỏ, cảnh vật hùng vĩ, đẹp đẽ, cảnh sắc mê hồn. Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long có thể gọi là cảnh sắc thần tiên có một không hai trên đời.
Nơi này còn có nhiều hòn đảo chủ yếu là đá vôi, thực động vật đa dạng phong phú, khu lịch sinh thái với hàng ngàn động vật dưới nước phong phú.Vịnh Hạ Long có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo thời kì lịch sử, thời Bắc thuộc được gọi là Lục Châu Lục Hải đến thời người Pháp gọi là Vịnh Hạ Long tên gọi đó được duy trì cho đến ngày nay với ý nghĩa vịnh nơi rồng đáp xuống.
Hạ Long cũng mang trong mình truyền thống hào hùng dân tộc Việt Nam, các địa danh như Vân Đồn, núi Bài Thơ, sông Bạch Đằng…đều là những địa danh nổi tiếng gắn liền với lịch sử. Nơi này còn có hệ sinh thái đa dạng như rừng ngập mặn, san hô, rừng cây nhiệt đới… Tập trung hàng ngàn loài động thực vật, động vật quý hiếm đã và đang phát triển, bảo tồn cho thế hệ mai sau.
Vịnh Hạ Long giờ đây đã là di sản văn hóa thế giới với cảnh quan thiên nhiên thần tiên, con người thân thiện, địa điểm tham quan không thể bỏ qua của mọi du khách khi đến với đất nước hình chữ S.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 4Đất nước hình chữ S nhỏ bé của chúng ta có rất nhiều địa điểm du lịch độc đáo và nổi tiếng. Tự hào được thiên nhiên ưu ái, nước Việt Nam ta có rất nhiều bãi biển, vũng vịnh tuyệt đẹp. Có thể kể đến rất nhiều những địa điểm như thế. Nhưng không thể nào thiếu Vịnh Hạ Long.
Hạ long là cái tên tự hào của người Việt Nam. Được UNESCO công nhận là bảy kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất thế giới, Vịnh Hạ Long đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình ảnh đẹp của chúng ta trong mắt bạn bè quốc tế. Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam thuộc một phần của vịnh Bắc Bộ. Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh – Việt Nam bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả, và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần con lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km với tổng diện tích 1553 km². Vịnh Hạ Long gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Đảo ở đây có hai loại là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái Tử Long và vịnh Hạ Long. Ở đây, chúng ta có thể tham gia chiêm ngưỡng hàng loạt những hang động đẹp, nổi tiếng. Vùng di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận có diện tích 434 km² gồm 775 đảo. Phần thiên nhiên được công nhận này như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ ở phía Tây, hồ Ba Hầm ở phía nam và đảo Cống Tây ở phía đông. Sự độc đáo của vịnh Hạ Long chính là hình dáng, đặc điểm của những hòn đảo nhỏ ấy. Các hang động đẹp cũng là điểm nhấn lớn của Hạ Long. Từng đảo, từng đảo quần tụ lại nhìn xa cứ như lớp lớp chồng lên nhau, tiến lại gần thì như xen kẽ nhau tạo thành một quần thể đẹp đến lạ lùng. Phải tự hào chúng ta được tạo hóa ưu ái. Từng đảo của vịnh không mang những đẹp mà còn mang hình hài của vạn vật. Từ hòn Trống Mái, hòn Ông Sư, hòn Lã Vọng rồi đến đảo Tuần Châu, hang Trinh Nữ….
Vịnh Hạ Long không chỉ đẹp bởi đảo đá, núi đá, hang động, mà còn đẹp bởi nước biển ở đây. Nước biển rất trong xanh. Chính vì thế mà du khách tới đây thường để tắm biển và ngắm đảo, hang động. Tên gọi Vịnh Hạ Long có từ thời Pháp thuộc. Trước đây vịnh có tên là Lục Châu, Lục Hải. Thời nhà Lý, vịnh có tên là Hải Châu. Đến thời vua Trần, Lê được gọi bằng các tên như: An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn, Lục Thủy. Tên của vịnh được thay đổi nhiều qua các thời kỳ. Cái tên vịnh Hạ Long xuất phát từ truyền thuyết Rồng đáp xuống bảo vệ chúng ta khỏi lũ giặc ngoại xâm. Theo nghĩa Hán Việt “Long” là rồng, “hạ” là đáp xuống. Cái tên Hạ Long chính là để nhắc về truyền thuyết này. Vịnh Hạ Long được vinh danh là kỳ quan thiên nhiên thế giới không chỉ bằng vẻ đẹp mà còn bởi nhiều yếu tố khác. Chẳng hạn như, ở nơi đây có rất nhiều địa danh khảo cổ học nổi tiếng: Đồng Mang, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Nó đã chứng minh, Hạ Long là cái nôi của nền văn minh con người thời kỳ Hậu đồ đá. Hơn hết, ở đây còn có sự đa dạng sinh học bậc nhất. Với sự tập trung của nhiều loài động thực vật đặc trưng cho từng kiểu hệ sinh thái: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… cùng với hàng ngàn loài động vật biển quý hiếm chỉ có ở vịnh Hạ Long. Điểm quan trọng không kém của vịnh Hạ Long này chính là nó gắn liền với nhiều giai thoại lịch sử của dân tộc, với nhiều chiến công chống giặc ngoại xâm lẫy lừng của các vị tướng anh hùng. Có thể kể đến: chiến thắng sông Bạch Đằng lẫy lừng năm xưa.
Một kỳ quan thiên nhiên, một dấu ấn lịch sử. Đến vịnh Hạ Long bạn không chỉ được tận hưởng một không gian đẹp, thiên nhiên bao trùm, cảnh sắc thoải mái nhẹ nhàng và êm dịu, mà còn được thưởng thức những món ăn ngon chế biến từ hải sản, các hoạt động giải trí. Đến Hạ Long chắc chắn bạn sẽ có một kì nghỉ dưỡng tuyệt vời.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 5Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh”. Mới đây vịnh Hạ Long còn được UNESCO công nhận là một trong bảy kỳ quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?
Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).
Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.
Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106°58′ – 107°22′ kinh độ Ðông và 20°45′ – 20°50′ vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km².
Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái tử long và vịnh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km² bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.
Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.
Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.
Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 6Nước ta có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong số đó không thể không kể đến Hạ Long. Đó là một kiệt tác của thiên nhiên, được công nhận là một di sản văn hóa thế giới. Người Việt Nam ta tự hào vì được sở hữu một danh lam thắng cảnh đẹp như vậy.
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Vịnh Hạ long được hình thành do sự vận động của đá và nước, là một tác phẩm nghệ thuật địa lý được hoàn thành sau hàng triệu năm biến đổi của địa chất. Vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553km² bao gồm 1.960 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi.
Nói đến vịnh Hạ Long, trước hết phải nói đến vẻ đẹp thần tiên của non nước mây trời nơi đây. Từ trên cao nhìn xuống, vịnh Hạ Long như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ vô cùng sống động. Đó là những tác phẩm tạo hình tuyệt mỹ, tài hoa của tạo hoá, của thiên nhiên biến hàng ngàn đảo đá vô tri tĩnh lặng kia trở nên những tác phẩm điêu khắc, hội họa hoàn mỹ với muôn hình dáng vẻ yêu kiều. Hàng ngàn đảo đá nhấp nhô trên sóng nước lung linh huyền ảo, vừa khoẻ khoắn hoành tráng nhưng cũng rất mềm mại duyên dáng, sống động. Đi giữa Hạ Long với muôn ngàn đảo đá, ta ngỡ như lạc vào một thế giới cổ tích bị hoá đá nơi đây. Đảo thì giống hình ai đó đang hướng về đất liền – hòn Đầu Người; đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước – Hòn Rồng; đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá – hòn Lã Vọng; và kia hai cánh buồm nâu lực lưỡng đang rẽ sóng nước ra khơi – hòn Cánh Buồm; rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước – hòn Trống Mái; đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất – hòn Lư Hương… Tất cả đều rất thực, thực đến kinh ngạc. Những đảo đá diệu kỳ ấy biến hóa khôn lường theo thời gian và góc nhìn. Tới đây ta mới nhận ra tất cả chúng không phải là những hòn đảo vô tri tĩnh lặng mà như có hồn và đều sống động.
Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang động tuyệt đẹp như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang Trinh Nữ, động Tam Cung… Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là “kỳ quan đất dựng giữa trời cao”. Du khách từ khắp năm châu khi đặt chân đến đây đều cảm thấy vô cùng thích thú trước vẻ đẹp kỳ vĩ của Hạ Long. Biển ở đây còn mang một vẻ đẹp rất riêng khi hoàng hôn buông xuống. Mặt vịnh lúc này được nhuộm một sắc màu đỏ rực của những tia nắng cuối cùng. Cảnh sắc quyện lại dệt nên những gam màu tuyệt diệu. Khi màn đêm buông xuống, vào những đêm trăng, mặt nước như được dát bạc quyện với màu sẫm của những đảo đá mờ xa khiến cho vịnh Hạ Long trở nên huyền ảo như thật như mơ.
Advertisement
Hùng vĩ và bí ẩn, đầy cảm hứng và vô cùng độc đáo, vịnh Hạ Long thật xứng đáng là một trong những kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất. Những hòn đảo nhỏ như được chấm lên trên nền xanh ngọc của biển, cùng theo đó là những hang động kỳ bí được tạo nên bởi sóng và gió, những cánh rừng xanh biếc rộn rã tiếng chim hót, thật kỳ ảo. Sương mù có thể làm cho tầm nhìn bị hạn chế nhưng lại góp phần làm cho vịnh Hạ Long thêm lung linh kỳ ảo. Ta đang ngỡ ngàng trước cảnh vật thơ mộng này, thoắt đã hiện lên cảnh vật khác, mới lạ và đầy vẻ quyến rũ. Các ngõ ngách lúc khép, lúc mở, lúc là hành lang thẳng tắp lung linh nước trời, lúc uốn lượn dưới chân những quả núi cao vút đổ bóng râm huyền bí xuống mặt nước yên ắng. Có khi thuyền ta đang đi, bỗng nhiên một dãy đảo sừng sững vụt hiện lên trước mặt, chắn ngang lạch nước, ngỡ đã cùng đường. Nhưng không, khi thuyền ta lướt tới, dãy đảo như né mình, mở ra các lối ngoặt bất ngờ dẫn ta đi sâu vào rừng đảo vừa quen thuộc lại vừa xa lạ. Cảnh vật của biển đảo Hạ long thoắt ẩn, thoắt hiện, với sự biến đổi chừng như giây lát đã làm cho biết bao du khách ngạc nhiên, say đắm.
Hạ Long cũng là nơi gắn liền với những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn – nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12; có núi Bài Thơ lịch sử; cách đó không xa dòng sông Bạch Đằng – là chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ đồ đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng… Hạ Long cũng là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái san hô, hệ sinh thái tùng áng, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới… Với hàng ngàn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng như tôm, cá, mực… Có những loài đặc biệt quý hiếm chỉ có ở nơi đây.
Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, chúng ta có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí… Vùng vịnh thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại.
Hiện nay, vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hạ Long là một điểm du lịch hấp dẫn vì cảnh quan nơi đây thật đẹp và hữu tình. Phong cảnh Hạ Long không bao giờ bị tẻ nhạt, mỗi một mùa lại mang đến cho Hạ Long một sắc thái riêng đầy ấn tượng. Mùa xuân giữa sóng nước mênh mông trong làn sương bạt che phủ, những đảo đá trở nên uyển chuyển mềm mại, bồng bềnh trên sóng nước. Mùa hè đến, ánh bình minh ló rạng nơi chân trời, những đảo đá như vươn dậy, từ mặt nước bao la. Toàn vịnh mang một màu đỏ rực chuyển dần sang màu xanh lam. Những gợn sóng lăn tăn ánh bạc đua nhau lướt trên mặt vịnh xô vào bờ. Vịnh Hạ Long là một di sản văn hóa đáng tự hào của dân tộc.
Ngày nay, vịnh Hạ Long vẫn đang thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, mang lại nhiều lợi ích cho nước nhà, chúng ta cần ra sức bảo vệ và giữ gìn vịnh Hạ Long để vịnh ngày càng xanh tươi hơn, mãi mãi là niềm tự hào của đất nước.
Thuyết minh về Vịnh Hạ Long – Mẫu 7Không rõ từ bao giờ cả một vùng non nước kì thú phần phía Bắc Việt Nam này lại mang tên Vịnh Hạ Long chỉ biết rằng cái tên gắn liền với chủ quyền đất và thấm đẫm chất sử thi. Vâng nói đến vịnh Hạ Long thì không một con dân nào trên đất nước Việt Nam này là không biết đến. Đây chính là một niềm tự hào của dân tộc Việt Nam đối với bạn bè thế giới bởi cảnh vật nơi đây độc đáo đến lạ thường.
Chuyện kể rằng không rõ từ thời nào một lần giặc ngoại xâm định xanh bằng đất nước Việt Nam nhỏ bé. May thay trời sai một đàn rồng xuống giúp để dẹp giặc. Rồng mẹ cùng rồng con phun ra châu ngọc. Châu ngọc ấy xếp thành muôn vàn đảo đá ngọc thạch. Chỗ thì kết lại như bức tường thành, chỗ lại chìa ra như trận địa ngăn quân xâm lược. Giặc tan rồng mẹ và rồng con không về trời mà ở lại trần gian in dấu chiến công đánh giặc. Chỗ rồng mẹ xuống gọi là Hạ Long, chỗ rồng con xuống gọi là Bái Tử Long, chỗ đuôi rồng chìa ra gọi là Bạch Long Vĩ và chiến tích hiện hữu biểu hiện cho sức mạnh, sự cao quý của kho sử thi ấy. Ngày nay đã trở thành báu vật vô giá nhất, kỳ quan độc nhất vô nhị của cả hành tinh.
Điểm đến đầu tiên của du khách khi đến đây là đảo Đầu Gỗ cách bến cảng khoảng chừng 4km. Nếu đi tàu sẽ mất khoảng 25 phút sẽ được chiêm ngưỡng các động nổi tiếng nhất của di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. Đó là động Thiên Cung và hang Đầu Gỗ là hai hang động mà du khách nào khi đến đây cũng không thể bỏ qua. Động Thiên Cung là một trong những hang động khổng lồ và nổi tiếng nhất vịnh Hạ Long và có nhiều người biết đến, những gì nhìn thấy trong hang động đều khiến con người kinh ngạc và sững sờ từ đầu đến cuối hang động khiến du khách không tin vào mắt mình. Mới hay Hạ Long đậm chất tuyệt vời ở sông nước và cả đất trời. Nếu chỉ đi từ bên ngoài những người mới đến thật khó có thể biết rằng nằm trong hàng trăm, hàng ngàn những núi đá lặng lẽ thăng trầm mão rủ bóng xuống biển xanh kia là không biết bao nhiêu các hang động lớn nhỏ. Mỗi lâu đài là một kiến trúc vô cùng tinh xảo của tạo hóa. Có những hang động đã được lưu vào lịch sử hàng trăm triệu năm.
Từ trên cao nhìn xuống vịnh Hạ Long như một bức tranh thủy mặc khổng lồ vô cùng sống động, đảo thì giống như ai đó đang hướng về phía đất liền, đảo thì giống như một con rồng khổng lồ giữa sóng nước mênh mông. Những điều kì diệu ấy biến hóa không ngừng theo mỗi góc nhìn khác nhau
Một ngày lênh đênh trên biển Hạ Long khiến ta có cảm giác lạ lùng và xao xuyến trước không gian tĩnh lặng thấp thoáng mờ tỏ sau làn sương mong manh là những đỉnh núi xanh lam. Thiên nhiên khiến tâm hồn ta như được thư thái tràn ra và chìm ngập vào bầu trời không gian trong cõi xa xôi. Bất giác ta như lớn thêm, có chút suy nghĩ sâu xa hơn về cuộc sống về triết lý của cuộc sống để ta trân trọng yêu quý những gì mà ta đang có.
Hiện nay vấn đề bảo tồn di tích lịch sử vịnh Hạ Long đang là vấn đề cấp thiết hàng đầu.Chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã và đang dùng những biện pháp mạnh để bảo vệ vịnh Hạ Long như phạt mạnh khi vứt rác xuống vịnh. Bên cạnh đó cũng đưa ra các phong trào để người dân và khách tham quan cùng làm sạch vịnh góp phần tô điểm cho vịnh Hạ Long. Tại vịnh rất nhiều người dân đặc biệt là các sinh viên học sinh đã có ý thức rất tốt khi thực thiện rất nhiều cuộc ra quân để làm trong lành vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long sẽ mãi là điểm đến thu hút khách tham quan bởi những nét kiến trúc độc và lạ khó có một nơi nào trên thế giới có được. Vịnh Hạ Long vẫn sẽ mãi là niềm tự hào của người dân Việt Nam đối với bạn bè năm châu để Việt Nam sẽ là một điểm đến thu hút khách du lịch thế giới.
…
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Bút Bi (Dàn Ý + 5 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay
Bút bi như người bạn nhỏ, thân thiết đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Bút bi cũng có rất nhiều kiểu dáng và màu sắc khác nhau. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí 5 bài thuyết minh bút bi lớp 9 để ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.
Dàn ý thuyết minh về cây bút biI. Mở bài
Giới thiệu chung về cây bút bi.
II. Thân bài
1. Giới thiệu nguồn gốc của bút bi
Người được cấp bằng phát minh đầu tiên: John J. Loud (Mỹ), nhưng phải đến Lazo Biro (Hungary) thì chiếc bút bi mới thực sự được hoàn thiện.
Lý do phát minh: phát hiện loại mực dùng in giấy rất nhanh khô, nghiên cứu để làm ra loại bút sử dụng loại mực này.
2. Cấu tạo cơ bản của bút bi
Vỏ bút: phần bên ngoài, hình ống trụ, dài khoảng 14 – 15cm, chất liệu nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất.
Ruột bút: phần bên trong, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước.
Các bộ phận đi kèm: lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ.
3. Phân loại
Theo kiểu dáng (đa dạng, phong phú…)
Theo màu sắc mực (xanh, đỏ, tím, đen…)
Theo hãng sản xuất (trong nước và nước ngoài)
4. Tác dụng
Dùng để ghi chép sách vở, nhật ký…
Gắn bó với học sinh, sinh viên như một người bạn.
5. Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Gọn nhẹ, dùng bền.
Giá rẻ hơn nhiều so với các loại bút ngòi.
Giúp viết chữ nhanh.
Làm chữ viết trên giấy mau khô, không bị thấm mực sang trang khác.
* Nhược điểm:
Viết nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm.
Chỉ dùng được một lần (đến khi hết mực), đa số không thể tái sử dụng.
III. Kết bài
Đánh giá cá nhân về cây bút bi (vai trò, tình cảm…).
Thuyết minh về cây bút bi – Mẫu 1Trên con đường lĩnh hội tri thức, hàng ngày cắp sách đến trường, bút bi là một người bạn rất thân thuộc và gần gũi với mỗi người học sinh. Nếu học tập là một công việc đầy gian nan, vất vả thì chiếc bút bi cũng đóng góp một phần không nhỏ vào công việc ấy.
Nếu chữ viết đánh dấu một trong những bước khởi đầu đáng nhớ của văn minh loài người thì cây bút chính là công cụ ghi lại những sáng tạo rực rỡ của nền văn minh ấy. Một trong những tổ tiên của cây bút hiện đại ngày nay là bút lông vũ, được làm từ lông của các loài chim lớn, chấm vào mực rồi viết lên giấy. Nhưng không thể lúc nào cũng kè kè lọ mực bên mình, người ta sáng tạo ra bút máy. Bút máy cũng có một số nhược điểm như: giấy tờ lem luốc, phải thường xuyên bơm mực, vì thế, vào năm 1938, một nhà báo người Hungary đã sáng chế ra bút bi. Tính đến nay, bút bi đã có rất nhiều cải tiến về hình dạng, chất lượng và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Bút bi có ba bộ phận chính là ruột bút, vỏ bút và bộ phận điều khiển. Vỏ bút thường được làm bằng nhựa hoặc kim loại, rất đa dạng về kiểu dáng và màu sắc. Vỏ bút như một cái áo bảo vệ cho ruột bút và lò xo bên trong. Ruột bút dài khoảng 10 cm, làm bằng nhựa dẻo, bên trong là mực. Nếu ví vỏ bút là cơ thể con người thì mực chính là máu đi nuôi cơ thể ấy. Ở đầu ruột bút là ngòi bút, làm từ kim loại không rỉ, gắn với một viên bi nhỏ xíu có đường kính từ 0,3-0,5 mm, viên bi này có tác dụng đẩy cho mực ra đều. Bộ phận điều khiển gồm lò xo kết hợp với đầu bấm ở cuối thân bút. Lò xo co dãn giúp cho ta điều khiển bút dễ dàng. Khi muốn sử dụng, ta chỉ việc bấm đầu bút, ngòi bút sẽ lộ ra, còn nếu không muốn sử dụng, ta lại bấm nhẹ một lần nữa, ngòi bút sẽ thụt vào. Điểm này ở bút bi khác với bút máy ở chỗ bút máy thường có nắp đậy, bút bi vì thế mà tiện dụng hơn nhiều.
Bút bi là đồ vật tiện dụng có mặt hầu hết trong các lĩnh vực. Bút giúp người học sinh ghi lại các kiến thức đã được tiếp thu. Với nhà văn, bút là công cụ để họ ghi chép những sáng tạo của mình lên trang giấy, với người làm báo, bút bi là vật không thể thiếu để họ tốc ký thật nhanh những tin tức, sự kiện nóng hổi diễn ra từng phút. Bút còn là món quà nhỏ xinh và ý nghĩa chúng ta có thể tặng nhau. Bút bi nhỏ gọn và tiện dụng nên chúng ta có thể mang theo bên mình đi khắp mọi nơi.
Cùng với sự thay đổi của thời gian, bút bi ngày nay cũng có nhiều cải tiến với nhiều chủng loại, mẫu mã đa dạng để phù hợp với mục đích sử dụng. Có nhiều loại mực như: mực xanh, mực đen, mực đỏ, mực dầu, mực nhũ… Các loại bút cũng vô cùng phong phú, từ bút bi đến bút dạ quang, bút đánh dấu… Tuy vậy bút bi cũng có hai loại chính là bút dùng một lần và bút dùng nhiều lần. Với bút dùng nhiều lần, khi hết mực, bạn chỉ cần thay ruột bút mới là lại có thể sử dụng tiếp. Giá của một chiếc bút bi cũng khá rẻ, từ vài nghìn đến vài chục nghìn đồng, tùy kiểu dáng, mẫu mã. Một số hãng sản xuất bút bi nổi tiếng là Thiên Long, Bến Nghé…
Để dùng được lâu, bạn nên bảo quản bút bằng cách bấm cho ngòi bút thụt vào khi không sử dụng, tránh làm rơi bút xuống đất dễ hỏng ngòi. Tuy vậy, bút bi cũng có một số bất tiện như hay bị tắc mực, khi đã viết đẹp và nhanh ta mới nên sử dụng bút bi.
Bút bi là người bạn nhỏ luôn sát cánh với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Ông cha ta đã nói: “Nét chữ nết người”, vì thế chúng ta hãy biết trân trọng và nâng niu chiếc bút để viết nên những con chữ thật đẹp. Nếu thiếu đi người bạn nhỏ hữu ích ấy, phải chăng con đường đến với tri thức của chúng ta cũng gian nan thêm gấp bội phần?
Thuyết minh về cây bút bi – Mẫu 2Một trong những đồ dùng vô cùng hữu ích đối với con người đó chính là cây bút bi. Nó là sản phẩm được tạo ra bằng trí tuệ của con người, là một trong những phát minh quan trọng của con người.
Bút bi là một đồ vật vô cùng thông dụng trong cuộc sống hiện đại. Nguyên lý hoạt động của một chiếc bút bi đó là nó có chứa một ống mực đặc, khi viết, mực được in lên giấy là nhờ chuyển động lăn của một viên bi nhỏ, với đường kính khoảng từ 0,5 đến 1.2 mm, gắn nơi đầu ống chứa mực. Điều đặc biệt là loại mực của chiếc bút khô rất nhanh, ngay khi chúng ta viết lên giấy nó đã khô để tránh bị lem ra giấy. Những chiếc bút bi thì lại vừa rẻ tiền, vừa thuận tiện và không cần bảo dưỡng, đã cải tiến cách viết của con người.
Lịch sử của chiếc bút bi như thế được ra đời bắt nguồn Một người Mỹ tên là John Loud đã xin cấp bằng sáng chế bút bi vào năm 1888 nhưng không được khai thác thương mại, do khả năng ứng dụng của phát minh này là không cao. Mãi cho đến năm 1938, một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Vào những năm 1930, Lazo Biro – một cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Ông rất thất vọng về những cây bút máy khi chúng luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Với sự thông minh và được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một kỹ sư hóa học, Lazo Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Ông đã lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Lazo Biro nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938.
Phân loại bút bi có thể dựa trên nhiều cơ sở. Tuy nhiên thông thường có hai loại bút đó là bút dùng một lần còn loại còn lại là bút dùng nhiều lần. Đối với bút dùng một lần thì cấu tạo vô cùng đơn giản, vỏ bút được làm bằng nhựa bao quanh ruột bút khi viết hết mực thì chúng ta bỏ đi. Đối với bút sử dụng nhiều lần thì vỏ bút được làm bằng hợp kim vô cùng chắc chắn bao quanh ruột bút, khi hết mực thì chúng ta chỉ cần thay ruột bút là có thể viết tiếp được bình thường mà không cần mua một cây bút mới. Ngoài ra bút bi cũng có thể có nắp đậy khi không dùng tới, hoặc nó dùng cách kéo đầu bi vào trong khi không dùng. Để đưa đầu bi vào trong cần phải có lò xo để kéo vào. Việc điều khiển đầu bi có thể dùng nhiều cách khác nhau như dùng nút bấm ở đầu, xoay thân bút, hoặc trượt.
Ở Việt Nam, có lẽ loại bút bi phổ biến nhất được sử dụng là của hãng Thiên Long. Giá của một chiếc bút khoảng tầm từ 3000 – 5000 đồng/1 chiếc. Cũng có nhiều loại đắt hơn rất nhiều do được sản xuất cầu kì hơn về hình dáng bên ngoài hoặc chất lượng ở bên trong. Bút bi có tác dụng rất lớn, nó là vật không thể thiếu đối với học sinh, sinh viên, đặc biệt là những người làm công việc viết lách. Nhờ có chiếc bút bi mà chúng ta có thể ghi lại những bài học, những ý tưởng, những bài văn, bài thơ hay đơn giản là ghi lại những thông tin cần chú ý ghi nhớ. So với bút mực, bút bi có ngòi bút viết trơn hơn, do đó người viết có thể viết tốc độ nhanh hơn lại không bị dây bẩn mực ra tay, chữ viết không bị nhòe.
Tuy bút bi rẻ và phổ biến như vậy nhưng đối với học sinh mới luyện chữ không được sử dụng bút bi, vì nét chữ của nó rất cứng cáp, dễ gây hỏng nét chữ. Bút bi có rất nhiều công dụng và theo thời gian nó vẫn là một dụng cụ không thể thay thế được trong cuộc sống của chúng ta. Không chỉ vậy, một cây bút bi còn gắn với lứa tuổi học trò trên những trang lưu bút đầy nét bút yêu thương, hay những nét chữ trên chiếc áo trắng tinh khôi.
Bút bi đã trở thành người bạn đồng hành trong suốt những năm tháng học tập hay làm việc của con người. Chúng ta hãy biết ơn những người đã phát minh ra chiếc bút bi – một vật dụng vô cùng tiện ích.
Thuyết minh về cây bút bi – Mẫu 3Đã từ lâu, cây bút bi trở thành một đồ dùng học tập, làm việc quen thuộc và không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Một chiếc bút bi tuy đơn giản là vậy nhưng để phát minh ra nó lại phải trải qua một quá trình.
Bằng sáng chế cho chiếc bút bi đầu tiên công nhận vào ngày 30 tháng 10 năm 1888 với tác giả là John J. Loud (Mỹ) – người đã tạo ra một công cụ viết có thể viết “trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác” mà những chiếc bút thông thường không thể làm được. Chiếc bút của Loud có một bi thép nhỏ, được giữ chặt bằng khung thép. Mặc dù nó có thể được sử dụng để đánh dấu trên các bề mặt thô như da, nhưng nó quá thô để có thể viết chữ. Nhưng phát minh này của ông không được thương mại hóa mà chỉ có thể cất vào “tủ kính” do tính ứng dụng không cao. Chỉ đến những năm 1930, khi Lazo Biro (Hungary) đang làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo chí nhỏ. Điều làm ông thất vọng là việc những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng. Một hôm, Biro ra công viên, thấy một bọn trẻ chơi bi. Một viên bi vô tình chạy qua vũng nước, để lại sau một vệt dài. Viên bi đó khiến ông nảy ra một ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút để nó truyền mực trong ống ra giấy. Khi đi thăm một xưởng in báo nó, ông đã phát hiện ra loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Được sự giúp đỡ của anh trai tên George, là một nhà hóa học, Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Năm 1944, ông được nhận bằng sáng chế vào ngày 10 tháng 6, với mẫu “Biro Pens of Argentina”. Từ đó bút bi được bán tại Argentina với thương hiệu Birome. Loại bút này được rất ít người biết. Biro được biết đến ở Argentina với cái tên “Lisandro José Bíró”. Mẫu bút mới này cũng được nhận bằng công nhận bản quyền Anh Quốc. Quả là phát minh ra một chiếc bút bi thật không dễ dàng.
Về hình dáng, một chiếc bút bi có hình trụ dài đường kính khoảng 0,8 cm, chiều dài khoảng 15 cm. Cấu tạo cơ bản của một chiếc bút bi gồm ba phần: vỏ bút, ruột bút và các bộ phận đi kèm. Phần bên ngoài là vỏ bút có hình ống trụ, dài 14 – 15cm, làm bằng nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất. Phần bên trong gọi là ruột bút, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước. Cuối cùng là các bộ phận đi kèm bao gồm lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ. Mực bút bi thường là một loại bột nhão chứa khoảng 25 đến 40 phần trăm thuốc nhuộm. Các loại mực của bút bi có khả năng khô rất nhanh.
Dựa vào cấu tạo, ta có thể phân ra hai loại bút chính là bút bấm vào bút nắp. Trong phần ruột của bút bấm thường có gắn một chiếc lò xo dài khoảng 3cm có đàn hồi tốt ôm lấy ruột bút từ đầu kim loại gắn viên bi lên trên, phần đầu bút được thiết kế chức năng bấm để mở hoặc tắt bút khi kết hợp cùng chiếc lò xo. Còn bút nắp thường không có lò xo, phần đầu bút cấu tạo đơn giản hơn bút bấm và có một chiếc nắp để mở ra đóng vào khi cần hoặc không cần sử dụng.
Dựa vào thời hạn sử dụng, người ta chia bút bi thành bút bi sử dụng một lần và nhiều lần. Bút bi sử dụng một lần thường làm bằng nhựa, sử dụng một lần rồi bỏ. Loại bút này thường có giá thành rẻ trên thị trường nên được sử dụng rộng rãi và phù hợp với đối tượng học sinh, sinh viên. Tuy nhiên, hiện nay người ta cải tiến hơn nên đã sản xuất ruột bút để có thể thay khi hết mực, nhưng do có giá thành rẻ nên người sử dụng vẫn thường bỏ đi. Bút bi sử dụng nhiều lần thì sau khi hết mực, chúng ta có thể bơm loại mực chuyên dụng của nó hoặc thay ruột cho bút để sử dụng cho những lần sau. Ưu điểm của loại bút này là thân thiện với môi trường và tạo cảm giác thân thuộc với người sử dụng vì khi họ quen sử dụng chúng thì không còn lo sợ hết mực phải thay chiếc bút khác.
Bút bi vô cùng phổ biến trong cuộc sống mà mọi người đều phải một lần cần dùng đến. Nó giúp chúng ta ghi chép lại kiến thức, những điều cần thiết… Ngày xưa, khi khoa học – công nghệ còn chưa phát triển, những chiếc bút bi vẫn luôn là người bạn gắn bó, cùng với cuốn sổ lưu bút được truyền tay nhau để ghi lại những tâm tư tình cảm của tuổi học trò.
Ưu điểm của một chiếc bút bi là gọn nhẹ, dùng khá bền, mực chảy đều và ít bị lem mực. Các loại bút bi có giá rẻ hơn nhiều so với các loại bút máy. Khi viết bút bi, chúng ta sẽ viết chữ nhanh hơn, thuận tiện cho công việc ghi chép bài giảng của thầy cô. Bên cạnh đó, nó còn có những nhược điểm như việc viết quá nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm. Ngoài ra, người ta chỉ bút bi một lần (đến khi hết mực) rồi sau đó bỏ đi, đa số không tái sử dụng lại.
Thế mới thấy bút bi là người bạn đồng hành thân thiết trong cuộc sống của con người. Chính vì vậy, mỗi người hãy biết trân trọng, giữ gìn chúng.
Thuyết minh về cây bút bi – Mẫu 4Bút bi là một vật dụng vô cùng cần thiết trong cuộc sống của con người, đặc biệt là với đối tượng học sinh, sinh viên.
Vậy một chiếc bút bi được phát minh ra như thế nào. Bằng sáng chế cho chiếc bút bi đầu tiên công nhận vào ngày 30 tháng 10 năm 1888 với tác giả là John J. Loud (Mỹ) – người đã tạo ra một công cụ viết có thể viết “trên bề mặt thô, chẳng hạn như gỗ, giấy gói thô và các sản phẩm khác” mà những chiếc bút thông thường không thể làm được. Chiếc bút của Loud có một bi thép nhỏ, được giữ chặt bằng khung thép. Mặc dù nó có thể được sử dụng để đánh dấu trên các bề mặt thô như da, nhưng nó quá thô để có thể viết chữ. Do không được thương mại hóa, tiềm năng bút của Loud đã không được khai thác và bằng sáng chế cuối cùng đã hết thời hạn bản quyền. Và việc sản xuất các bút bi một cách đại trà như bây giờ được xuất phát từ các thử nghiệm, phát triển của hóa học hiện đại và khả năng sản xuất thì phải đến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, việc các bằng sáng chế được đăng ký trên toàn thế giới trong quá trình phát triển sơ khai của bút bi là những bằng chứng cho những nỗ lực thành công trong việc làm cho những chiếc bút bi trở nên hiệu quả về mặt thương mại và được dùng phổ biến.
Đa số các loại bút bi ban đầu khi viết ra mực không đều; vấn đề gặp phải nhiều nhất của các loại bút khi ấy là tràn mực và tắc mực – đây là nhược điểm hàng đầu cần phải xử lý. Vào những năm 1930, Lazo Biro (Hungary) khi đang làm cộng tác viên biên tập cho một tờ báo nhỏ. Vào thời đại khi ấy, công việc này đòi hỏi ông phải viết rất nhiều, nhưng những cây bút máy luôn làm bẩn giấy tờ và thường xuyên bị hỏng – điều đó khiến ông vô cùng khó chịu, thậm chí là thất vọng. Trong một lần ông ra công viên nhìn thấy bọn trẻ chơi bi. Một viên bi vô tình chạy qua vũng nước, để lại sau một vệt dài. Viên bi đó đã khiến ông nảy ra sinh ra ý tưởng đặt viên bi ở đầu bút để nó truyền mực trong ống ra giấy. Ông đã đến thăm thăm một xưởng in báo. Biro để ý rằng, loại mực dùng để in báo rất nhanh khô, nhờ đó giấy không bị mực làm bẩn và ông quyết định tạo ra một loại bút sử dụng loại mực giống như vậy. Nhờ có sự giúp đỡ của anh trai tên George – một nhà hóa học, Biro bắt đầu công việc thiết kế ra một loại bút mới. Đầu tiên, Biro lắp vào đầu bút một viên bi nhỏ, có thể xoay tự do trong một cái hốc. Khi di chuyển đầu bút trên giấy, viên bi đó xoay tròn, và kéo mực xuống in trên giấy. Sau khi phát minh thành công, Biro được nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938, cũng tại năm đó một nhà báo người Hungary mới giới thiệu loại bút bi hiện đại. Năm 1944, Biro nhận bằng sáng chế vào ngày 10 tháng 6, với mẫu bút mới – Biro Pens of Argentina. Cũng từ đó bút bi được bán tại Argentina với thương hiệu Birome. Loại bút này được rất ít người biết. Biro được biết đến ở Argentina với cái tên “Lisandro José Bíró”. Mẫu bút mới này cũng được nhận bằng công nhận bản quyền Anh Quốc.
Bút bi thon nhỏ có hình trụ dài đường kính khoảng 0,8 cm, dài khoảng 15 cm. Chiếc bút bi ngày nay dù có nhiều thay đổi về hình dáng, xong cấu tạo cơ bản vẫn giống nhau. Cấu tạo của một chiếc bút bi khá đơn giản. Cơ bản gồm ba phần: vỏ bút, ruột bút và các bộ phận đi kèm. Đầu tiên là vỏ bút: phần bên ngoài, hình ống trụ, dài 14 – 15cm, chất liệu nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường in các thông số sản xuất. Kết đó là ruột bút: phần bên trong, làm từ chất liệu nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước. Ngoài ra còn có các bộ phận đi kèm bao gồm lò xo, nút bấm, đai ngoài vỏ – với những chức năng riêng. Mực bút bi thường được sản xuất từ một loại bột nhão chứa khoảng 25 đến 40 phần trăm thuốc nhuộm. Thuốc nhuộm phổ biến trong mực xanh lam (và đen) là xanh Phổ, xanh Victoria, tím methyl, tím pha lê và xanh phthalocyanine. Thuốc nhuộm eosin thường được sử dụng cho mực đỏ. Các loại mực thường có khả năng chống nước sau khi sấy khô.
Có thể phân loại bút bi dựa trên nhiều cơ sở khác nhau: hình dáng, màu mực, hãng sản xuất hay tỉ lệ và kích thước ngòi bút. Cách phân loại phổ biến nhất đó là: loại dùng một lần và loại có thể nạp lại mực. Loại dùng một lần chủ yếu được làm từ vàng dẻo hay nhựa cứng và bỏ đi khi dùng hết mực. Có thể có nắp bút để bọc đầu bi lại khi không dùng, hoặc dùng cơ chế lò xo để đẩy đầu bi ra. Loại có thể nạp lại mực thường được làm bằng kim loại hoặc nhựa có chất lượng cao và có giá thành cao hơn. Ống mực và đầu bi của loại nạp lại được gắn liền với nhau. Khi dùng hết mực thì cần phải thay đổi cả ống mực và đầu bi này.
Ngày nay, khi muốn thu hút người tiêu dùng, đặc biệt là học sinh bút có thể mang hình dáng ngộ nghĩnh hoặc trên thân bút có in hình các nhân vật truyện tranh. Để tăng tính sang trọng cho cây bút phục vụ người làm việc ở công sở, kinh doanh, bút có thể làm bóng, mạ màu vàng hay màu bạc sáng chói. Bút bi có loại dùng nắp đậy đầu bi để tránh làm khô mực, hỏng bút, lại có loại dùng đầu bấm để đầu bi thụt vào bên trong vỏ bút. Loại bút được dùng hiện nay là bút bi bấm…
Hiện nay do nhu cầu bút bi được sử dụng nhiều, bởi vậy đã có rất nhiều công ty sản xuất mặt hàng này. Trên thị trường ở trong nước ta phổ biến nhất là loại bút bi của công ty Bến Nghé và Thiên Long. Một chiếc bút có giả khá hợp lý, từ 3000 – 3500 đồng/một chiếc. Cũng có nhiều loại đắt hơn rất nhiều do bề ngoài được trang trí trang trọng.
Bút bi có tác dụng rất lớn, nó là vật không thể thiếu đối với học sinh, sinh viên và những người làm công việc viết lách. Nhờ có chiếc bút bi mà chúng ta có thể ghi lại những bài học, những ý tưởng, những bài văn, bài thơ hay đơn giản là ghi lại những thông tin cần chú ý ghi nhớ. So với bút mực, bút bi có ngòi bút viết trơn hơn, do đó người viết có thể viết tốc độ nhanh hơn lại không bị dây bẩn mực ra tay, chữ viết không bị nhòe. Nếu so sánh với bút máy, bút bi có nhiều ưu điểm hơn. Nó rất gọn nhẹ, giá thành rẻ hơn nhiều so với các loại bút ngòi. Khi sử dụng bút bi, người dùng có thể viết với tốc độ nhanh hơn. Chữ viết trên giấy mau khô, không bị thấm mực sang trang khác. Tuy nhiên, bút bi cũng có một vài nhược điểm. Việc viết chữ quá nhanh dễ làm nét chữ cứng, mất thanh, đậm. Chính vì vậy, bút bi chỉ được phép sử dụng cho đối tượng từ học sinh cấp hai trở lên. Các loại bút bi đa số chỉ dùng được một lần (đến khi hết mực), không thể tái sử dụng.
Tóm lại, bút bi là một loại đồ dùng vô tiện ích trong học tập, công việc. Dù thế giới ngày càng phát triển hơn, thì những chiếc bút bi sẽ vẫn còn được sản xuất khi con người vẫn cần đến nó.
Thuyết minh về cây bút bi có sử dụng biện pháp nghệ thuậtBút bi là một vật dụng gần gũi, gắn bó và vô cùng cần thiết trong đời sống con người. Bút bi không thể thiếu đối với những bạn học sinh đang ngày ngày cắp sách đến trường.
Cho đến nay, chưa ai biết chính xác thời gian chiếc bút ra đời. Từ xa xưa, ông cha ta thường dùng bút lông để viết rất bất tiện khi phải mài mực, chấm mực thường xuyên. Sau đó chiếc bút máy ra đời với nhiều ưu điểm hơn hẳn. Người sáng chế ra chiếc bút bi là một nhà báo người Hung-ga-ri tên là Bi-rô. Điều thôi thúc ông sáng chế ra chiếc bút bi là để thuận lợi cho công việc làm báo của mình vì bút máy làm giấy nhoè mực. Bi-rô nhận bằng sáng chế Anh Quốc vào năm 1938. Từ khi ra đời đến nay, chiếc bút bi luôn tục được cải biến để phù hợp hơn với người dùng và trở nên thông dụng trên toàn thế giới. Bút bi du nhập vào nước ta từ thế kỉ XX.
Chiếc bút bi có rất nhiều chủng loại phong phú và đa dạng nhưng phổ biến nhất là loại có nắp đậy và loại nút bấm. Nhưng dù là loại nào thì về cơ bản bút bi cũng có hai bộ phận chính là ruột bút và vỏ bút. Vỏ bút được làm bằng nhựa cứng với hình dạng, màu sắc rất phong phú nhưng đa phần là màu trong suốt để người viết nhìn thấy ruột bút bên trong. Vỏ bút có độ dài từ 14 đến 15 cm, hình thụ và thon dần về phía đầu bút. Vỏ bút có loại bề mặt trơn nhẵn, chỗ cầm để viết có khứa thành các rãnh ngang hoặc được lắp một lớp cao su để không bị trơn tay khi viết. Có loại có hình lục giác hoặc bát giác đều. Để góp phần làm cho chiếc bút bi đẹp hơn các cơ sở sản xuất thay đổi mẫu mã, màu sắc và các hoa văn trang trí để thu hút khách hàng. Với chiếc bút bi đậy nắp, vỏ bút thường có cấu tạo đơn giản. Vỏ bọc thường bằng nhựa hình trụ, chỗ tiếp giáp với tay người viết thường làm bằng cao su mềm hoặc rãnh mềm, tạo ma sát giúp việc cầm bút dễ dàng hơn. Nắp đậy ôm khít vào ngòi bút, ở đỉnh nắp có gắn một con chíp nhỏ có tác dụng bảo vệ ngòi bút. Nắp đậy còn có khuy cài để cài bút vào vở, sách, túi để bút không bị rơi. Riêng với loại bút có nút bấm thì phần đầu của bút bi gắn liền với bộ phận ruột bút bên trong gọi là lẫy bút. Khi viết, ấn vào phía đầu trên của bút bi thì ngòi bút sẽ ra, không muốn viết nữa thì ấn vào cái lẫy để ngòi bút thụt vào.
Bộ phận quan trọng nhất của chiếc bút bi là ruột bút. Ruột bút thường được làm bằng nhựa, dài từ 10 đến 12cm, dùng để đựng mực nên còn gọi là ống mực. Thông thường ruột bút có màu trong suốt để người viết có thể biết còn bao nhiêu lượng mực bên trong. Có những loại ống mực không trong suốt mà có màu trắng sứ với những đường kẻ màu bên trên để giúp người viết nhận diện được màu mực bên trong. Gắn với ống mực là ngòi bút. Đầu ngòi bút có gắn một viên bi nhỏ tầm 0,7 đến 1mm. Viên bi nhỏ đó có khả năng chuyển động đều, tạo ra khe hở cho mực thoát ra ngoài. Một số loại bút có phần lò xo nhỏ làm bằng kim loại hình xoắn ốc. Lò xo này kết hợp với đầu bấm ở cuối thân bút và hai gờ nhỏ trên ruột bút để điều khiển ngòi bút lộ ra hay thụt vào trong vỏ. Bút bi có nhiều loại mực: mực nước, mực khô, mực nhũ, mực dạ quang,… kiểu dáng ngày càng đẹp. Có chiếc bút có nhiều ngòi với nhiều màu khác nhau xanh, đỏ, vàng, đen, tím, hồng… rất tiện lợi cho người sử dụng. Một cây bút cũng giống như cơ thể con người vậy, ruột bút là phần bên trong cơ thể, đầu bi chính là trái tim và mực chứa trong bút được ví như máu, giúp nuôi sống cơ thể. Còn vỏ bút giống như đầu, mình, tứ chi vậy… chúng phải cứng cáp thì bút mới bền, hoạt động tốt cũng như tạo cho người sử dụng cảm giác thoải mái. Màu sắc và hình dáng bên ngoài giống như quần áo, làm tăng thêm vẽ đẹp cho bút. Các chi tiết của bút dù quan trọng hay thứ yếu đều góp phần tạo nên một cây bút, như một kiếp tằm rút ruột nhả tơ, âm thầm giúp ích cho đời.
Bút bi từ khi sáng chế đến nay ai cũng công nhận ưu điểm của nó. Chiếc bút bi viết nhanh, không mất thời gian bơm mực, mực khô nhanh, không nhoè, không dây bẩn ra sách vở. Tuy vậy vì viết nhanh nên bút bi làm chữ người viết có phần xấu đi nhiều so với viết bút mực. Do vậy mà học sinh cấp một, các thầy cô giáo vẫn bắt buộc học sinh phải dùng bút mực để luyện nét chữ cho thành thục rồi mới được sử dụng bút bi. Chiếc bút bi là một vật dụng cần thiết, là người bạn không thể thiếu đối với mỗi học sinh, sinh viên. Bút bi được dùng trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề: bút bi theo chân các kĩ sư đến với công trình kiến trúc, là phương tiện để các nhà văn nhà thơ, nhạc sĩ thỏa sức sáng tạo, là chiếc cầu nối giúp học sinh tiếp cận bến bờ tri thức.
Chiếc bút bi có nhiều công dụng như thế, vì vậy cần phải bảo quản bút bi đúng cách để chiếc bút được bền lâu. Khi viết xong cần phải đậy nắp bút hoặc bấm nút để ngòi bút thụt vào bên trong, tránh dây mực ra xung quanh và ngòi bút được bảo quản. Cần tránh để rơi bút hoặc để đầu bút cắm xuống đất thì sẽ hỏng ngòi. Khi mua phải thử xem mực bút có ra đều không. Tránh để hỏng hóc hay mất mát thì nên để bút trong hộp bút hoặc ống bút. Khi chiếc bút lâu ngày không được sử dụng thì hãy ngâm vào nước nóng để mực ra đều. Chiếc bút bi có thể thay ngòi nên khi sử dụng hết mực thì chớ vứt cả bút đi mà chỉ nên thay ngòi mới để tiết kiệm chi phí.
Chiếc bút bi là người bạn nhỏ, luôn sát cánh đồng hành trong công việc, học tập của mọi người, không tốn kém nhiều chi phí lại có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh, điều kiện ở mọi lúc mọi nơi. Chúng ta hãy biết ơn những người đã chế tạo ra cây bút để nhờ đó chúng ta có sự hỗ trợ đắc lực trong học tập và trong công việc hiện nay vẫn đáp ứng được theo xu hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám Dàn Ý &Amp; 5 Mẫu Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!