Bạn đang xem bài viết Con Mèo Mà Trèo Cây Cau ❤️️Phân Tích Bài Đồng Dao A được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Con Mèo Mà Trèo Cây Cau ❤️️Phân Tích Bài Đồng Dao A-Z ✅ chúng tôi Chia Sẻ Bài Thơ Hay Bài Hát Gần Gủi Cho Các Trẻ Em Thiếu Nhi.
SCR.VN chia sẻ Bài Thơ Con Mèo Mà Trèo Cây Cau ngắn cho các bé.
👉Bên cạnh Thơ Con Mèo Mà Trèo Cây Cau, Tặng bạn trọn bộ thơ + tranh tô màu cho bé sau đây.
TẶNG BẠN TRỌN BỘ 💖Bài Thơ Nhớ💖 HAY NHẤT
Bài đồng dao con mèo mà trèo cây cau gần gùi, dễ nhớ dành cho bé yêu của bạn.
Dễ dàng nhận thấy, bài đồng dao “Con mèo mà trèo cây cau” này nằm trong hệ thống các bài ca dân gian có cùng mô-típ câu mở đầu theo cấu trúc quen thuộc (chủ thể – “mà” – vị thể) như: Con kiến mà leo cành đa…/ Con cò mà đi ăn đêm…/ Cái kiến mà kiện củ khoai…
Bài ca dao đối đáp này có thể tạm xác định hai phần hỏi – đáp rõ rệt:
Hai nhân vật cũng được xác định rõ và nhắc đi nhắc lại trong bài ca dao, với từ xưng hô phân biệt: chú chuột và con mèo.
Tuy chỉ gồm 4 câu ngắn gọn, cô đúc bài đồng dao đã gây băn khoăn, thắc mắc cho người đọc từ bao đời nay.
Chúng ta đều biết, mèo là một trong những con vật nuôi gần gũi, thân thiết của con người. Mèo còn giúp con người bắt chuột, hạn chế những thiệt hại do lũ chuột gây ra. Còn chuột, ai cũng biết, là loài phá hoại, đáng ghét.
Trong đời sống mèo là kẻ thù truyền kiếp, không đội trời chung với chuột, có tập tính bắt chuột để ăn thịt. Quan hệ giữa chúng là mối quan hệ loại trừ.
Khá nhiều băn khoăn nảy sinh trong bao thế hệ người đọc khi tiếp xúc với bài đồng dao, như: Chuột có làm tổ trên cây cau? Mèo có ăn mắm muối? Nhân vật nào hỏi và trả lời? Và băn khoăn bao trùm nhất chính là ý nghĩa của bài đồng dao là gì?
👉Một cách học Văn khác
Có ý kiến cho rằng: Bài đồng dao phản ánh sự giả tạo của con mèo và sự khôn ngoan của chú chuột. Ý hàm ngôn là trong xã hội còn kẻ mạnh ức hiếp người yếu và kẻ mạnh thường nguỵ trang tinh vi bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa.
Bài ca dao toát lên một tiếng kêu công lý, một tiếng cười thông minh, sắc sảo như một màn kịch ngắn hấp dẫn và thú vị, kết thúc bằng câu chửi gằn giọng độc địa của chú chuột “cha con mèo”!
Ý kiến khác lại cho rằng: Chú chuột đã “chơi khăm” con mèo thông qua sự việc “giỗ cha con mèo” bằng mắm với muối, thực chất là nhằm nguyền rủa dòng họ nhà mèo.
Cách dùng từ “hỏi thăm”, “chú chuột” nói lên sự dối trá, tinh quái của mèo. Nhưng chú chuột tinh khôn, láu lỉnh không dễ bị đánh lừa, lại nói kháy mèo cho bõ ghét, cho hả giận.
“Đi chợ đàng xa”, nghĩa là chuột muốn nói với mèo rằng mình đã cao chạy xa bay rồi, không tóm được đâu. Mèo tinh quái nhưng chuột còn tinh ranh hơn. Kết cuộc là cảnh chú chuột nhỏ bé tinh khôn đã thắng lão mèo to xác hung dữ – một kết thúc có hậu.
Thêm một góc nhìn khác: Chẳng hề có chuyện mèo chuột ở đây, mà chính là chuyện con người. Bài đồng dao mách nước cho kẻ yếu cách ứng xử với kẻ mạnh; chuột khôn khéo, mềm mỏng đáp lại sự “ân cần hỏi han” của mèo để cầu sự bình an theo phương châm “Mạnh dùng sức, yếu dùng chước”.
Nhà sưu tập từng trải N.U ở Thành phố Hồ Chí Minh qua trao đổi ý kiến với chúng tôi thì lại quả quyết rằng:
“Ý nghĩa bài đồng dao tương tự như bức tranh Đông Hồ “Đám cưới chuột”, chúng đều là kiệt tác nghệ thuật dân gian, nhằm phản ánh hiện thực xã hội đương thời; qua đó phê phán nạn vòi vĩnh, hối lộ, tham nhũng… Những giá trị văn hóa ấy có ý nghĩa trường tồn”.
Ta thường thấy ở các làng quê Việt Nam, hiện tượng “con mèo trèo cây cau” mài vuốt là theo tập tính giống loài thông thường của nó. Mượn hình ảnh ngộ nghĩnh đó, tác giả dân gian đã sáng tác nên bài đồng dao vui vẻ, sinh động mà trong đó, hai nhân vật mèo – chuột trở thành đôi bạn thân thiết, biết sống quan tâm đến nhau.
Trong bài đồng dao, với những hình ảnh đẹp, không còn mối quan hệ đối nghịch sống chết giữa mèo và chuột, mà trở thành câu chuyện cảm động trong thế giới tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên qua nhiều thế hệ. Qua “đôi mắt xanh non” của trẻ em, đôi bạn mèo – chuột hiện lên chan hòa tình bằng hữu thân thiện, nhân hậu.
👉Đọc thơ và hiểu thơ
Tác giả dân gian đã rất có lý khi quan niệm rằng chưa nên vội sớm gieo vào đầu óc trẻ thơ chuyện thù hằn, giết chóc lẫn nhau giữa muôn loài, mà hãy nên nuôi dưỡng tình cảm nhân hậu, yêu thương, nghĩa tình trong đầu óc thơ trẻ.
Rõ ràng, bài đồng dao này đưa ra một bài học cho trẻ em về lòng nhân ái, chung sống hòa bình, chưa biết đến hận thù giữa muôn loài.
Lời lẽ dung dị, dễ hiểu, không triết lý cao siêu, nhưng gói ghém tình ý rất sâu sắc; không phải chỉ để ru em, mà còn nhằm cho người lớn suy ngẫm và giáo huấn con cháu.
Khám phá thêm Bài 😍Gió Đưa Cành Trúc La Đà😍 Cảm Nhận Về Bài Ca Dao Nhé
Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con ❤️️12+ Bài Mẫu Khổ Cuối Hay Nhất
Phân Tích Khổ 2 Nói Với Con ❤️️ 12+ Bài Văn Mẫu Phân Tích Nói Với Con Khổ Cuối Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Giúp Bạn Học Tốt Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 9.
Việc lập dàn ý phân tích khổ 2 Nói với con là rất quan trọng trong quá trình làm bài. Nắm được dàn ý phân tích khổ 2 bài Nói với con sẽ giúp các em học sinh định hướng bố cục và những luận điểm chính. Tham khảo mẫu phân tích khổ 2 Nói với con dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài phân tích khổ 2 Nói với con:
Giới thiệu tác giả Y Phương và bài thơ Nói với con.
Giới thiệu nội dung cần phân tích – khổ 2 Nói với con
III. Thân bài phân tích khổ 2 Nói với con:
a. Luận điểm 1: Phân tích những phẩm chất cao quý của “người đồng mình” trong khổ 2 Nói với con.
“Người đồng mình” : người vùng mình, người miền quê mình, đây là cách nói mang tính địa phương của người Tày gợi sự thân thương, gần gũi. Nghĩa rộng hơn là những người sống cùng trên một đất nước, một dân tộc.
“thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm”, thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia.
“Cao đo nỗi buồn / Xa nuôi chí lớn”: “Cao”, “xa” chỉ khoảng cách của đất trời, chỉ những khó khăn, thách thức mà con người phải trải qua trong cuộc đời.
Hai câu thơ đăng đối ngắn gọn đúc kết một thái độ, một cách ứng xử cao quí: người biết sống là người biết vượt qua nỗi buồn, gian nan, thử thách… hơn nữa còn phải luôn nuôi chí lớn, nỗ lực phấn đấu đi lên. Có như vậy mới thành công trên con đường đời, gặt hái được nhiều hoa thơm, trái ngọt.
“đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” : ẩn dụ cho những gian lao, vất vả
“Sống”, “không chê” : ý chí và quyết tâm vượt qua thách thức, khó khăn của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”.
Cho dù cuộc sống gian nan, vất vả, người đồng mình vẫn chịu đựng và suốt đời gắn bó thủy chung, không chê bai, không một lời than thở
Khẳng định và ngợi ca đức tính cao đẹp của “người đồng mình”: sống sâu sắc, ý chí mạnh mẽ, có một trái tim ấm áp và nghị lực phi thường.
Biện pháp so sánh “Sống như sông như suối” thể hiện cách sống lạc quan, mạnh mẽ như thiên nhiên (sông, suối) chấp nhận những thác ghềnh để rút ra những bài học quí báu.
“Lên thác xuống ghềnh / Không lo cực nhọc”: Niềm tin vào ngày mai tươi sáng, cực nhọc, đói nghèo rồi sẽ tan biến.
“Người đồng mình thô sơ da thịt”: giản dị, chất phác, thật thà, ca ngợi bản chất mộc mạc, giản dị, chân thật của người đồng mình sớm khuya vất vả.
“Chẳng mấy ai nhỏ bé” ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của người đồng mình.
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”: truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi. Ẩn dụ cho tinh thần đề cao, tự hào về quê hương, tự tay xây dựng nên truyền thống quê hương đẹp giàu.
“quê hương thì làm phong tục” : phong tục tập quán là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người.
Đây chính là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng : Mỗi người, mỗi cuộc đời chính là một “mùa xuân nho nhỏ” tạo nên mùa xuân cộng đồng và cộng đồng sẽ là cái nôi nâng đỡ cho mùa xuân tâm hồn mỗi người.
b. Luận điểm 2: Phân tích lời dặn dò, nhắn nhủ trìu mến, mộc mạc với biết bao niềm tin hi vọng của người cha trong khổ 2 Nói với con.
“Tuy thô sơ da thịt”, “không bao giờ nhỏ bé” một lần nữa lặp lại để khẳng định và khắc sâu hơn những phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”
“Lên đường”: Người con đã khôn lớn, đến lúc tạm biệt gia đình, quê hương để bước vào một trang mới của cuộc đời
“Nghe con”: hai tiếng ẩn chứa bao nỗi niềm và lắng đọng, kết tinh mọi cảm xúc, tình yêu thương vô bờ bến của cha dành cho con.
Qua việc ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, người cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, giữ đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” của cha ông, biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.
Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao rằng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương, đất nước.
c. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong khổ 2 Nói với con:
Thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi
Giọng điệu thơ linh hoạt lúc thiết tha, trìu mến khi trang nghiêm
Hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa khái quát, mộc mạc, giàu chất thơ
Biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ…
III. Kết bài phân tích khổ 2 Nói với con:
Khẳng định lại giá trị nội dung của đoạn thơ thứ 2 bài Nói với con
Nêu cảm nhận của em về khổ thơ.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Nói Với Con Y Phương 🌟 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Y Phương là một trong những nhà thơ dân tộc Tày nổi tiếng. Những bài thơ của ông thường thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ, lời thơ hay, giàu hình ảnh về những con người miền núi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông phải kể đến bài thơ “Nói với con”, đây là bài thơ về tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của con người, quê hương đất nước.
Tác phẩm Nói với con được viết năm 1980, in trong tập Thơ Nam 1945, là lời tâm sự của tác giả với đứa con gái đầu lòng và với chính bản thân. Có thể nói, đoạn trích ấn tượng nhất là khổ thứ 2 của bài thơ. Đây là khổ thơ thể hiện lòng tự hào về sức sống mãnh liệt, bền bỉ, những truyền thống tốt đẹp cao cả của quê hương. Những dòng thơ “Người đồng mình thương lắm con ơi… Nghe con” không chỉ là lời dặn dò đơn giản mà còn là tất cả tình cảm trân trọng, ngợi ca, tự hào về con người, về đất nước quê hương.
Gợi ý cho bạn 🌳 Mở Bài Nói Với Con 🌳 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Bằng biện pháp miêu tả, ẩn dụ, đối lập tác giả đã vẽ lên một bức tranh về cuộc sống của người dân miền núi, khí phách, hiên ngang. Đoạn 2 bài thơ “Nói với con” mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình tha thiết, trìu mến và có sự biến đổi phù hợp. Đoạn thơ đã thể hiện tình yêu thương sâu sắc của cha mẹ dành cho con cái cũng như những rung cảm tinh tế của nhà thơ trước vẻ đẹp của người đồng bào và mảnh đất. Qua đó gửi gắm lời nhắn mang lòng tin mãnh liệt vào những giá trị tích cực vĩnh cửu của dân tộc.
Chỉ qua khổ 2 của bài thơ Nói với con chúng ta đã thấu hiểu phần nào những khát vọng lớn lao của người dân tộc miền núi. Lời thơ giản dị, chân thành nhưng chạm đến trái tim bạn đọc, cảm nhận được tình yêu to lớn của người cha dành cho con hay chính xác hơn là dành cho quê hương đất nước.
Đọc nhiều hơn ☀️ Kết Bài Nói Với Con ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày. Quê anh ở Trùng Khánh thuộc tỉnh Cao Bằng. Từ người lính thời chống Mĩ, anh trở thành nhà thơ. Thơ của Y Phương mang một vẻ đẹp riêng, “thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi”. Nói với con của Y Phương là một bài thơ hay, một bông hoa nghệ thuật đầy sắc hương của núi rừng biên giới phía Bắc. Đây là phần thứ hai của bài thơ:
Ở phần đầu, Y Phương đã viết: “Người đồng mình yêu lắm con ơi”, thì ở phần hai, mở đầu đoạn thơ ông lại nhân giọng. Lời cha nói với con nghe thật ngọt ngào thiết tha: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. “Người đồng mình” là đồng bào quê hương mình, là bà con dân tộc Tày, dân tộc Nùng, nơi “nước non Cao Bằng”, nơi “gạo trắng nước trong”. Phải yêu, phải thương “người đồng mình” rất đẹp, rất đáng tự hào. Không bao giờ lùi bước trước mọi thử thách khó khăn. Tâm càng sáng, chí càng cao càng bền, tầm nhìn càng xa càng rộng:
Cha nói với con, dạy bảo con về đạo lí làm người. Trong bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào “cha vẫn muốn”, cha vẫn mong con biết ngẩng cao đầu và sống đẹp. Quê hương sau những năm dài chiến tranh còn nhiều khó khăn chưa đẹp, chưa giàu. Đường đến các bản còn ”gập ghềnh”, còn nhà sàn vách nứa, thung còn “nghèo đói” thiếu thốn khó khăn. Con nhớ là “không chê không chê…”:
Con phải biết sống mạnh mẽ, kiên cường “như sông như suối”. Con phải giàu chí khí và có bản lĩnh, dù phải “lên thác xuống ghềnh” vẫn “không lo cực nhọc”. Các điệp ngữ: “không chê… không chê”, “sống trên… sống trong… sống như…” đã làm cho vần thơ phong phú âm điệu nhạc điệu, lời cha dặn con vô cùng thiết tha. Cách ví von, cách vận dụng thành ngữ làm cho lời cha dặn vừa cụ thể mộc mạc, vừa hàm nghĩa, sâu lắng, ân tình:
Các từ ngữ, hình ảnh: “thô sơ da thịt”, “nhỏ bé”, “tự đục đá kê cao quê hương” đã thể hiện bản chất, bản lĩnh sống của đồng bào mình, bà con quê hương mình. Ba tiếng “người đồng mình” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần đã hiểu lộ niềm yêu mến tự hào quê hương không thể kể xiết. “Người đồng mình” sống giản dị mộc mạc “thô sơ da thịt”, chịu khó chịu khổ, kiên nhẫn trong lao động làm ăn.
Chẳng bao giờ “nhỏ bé”, chẳng bao giờ sống tầm thường trong cuộc đời và trước thiên hạ. Cha nói với con là nói về đạo lí làm người, cha nhắc con phải biết sống đẹp, sống mạnh mẽ, sống có nhân cách. Con phải biết nêu cao lòng tự hào, biết giữ lấy và phát huy truyền thống cao đẹp của “người đồng mình”, của quê hương mình:
Con chuẩn bị lên đường, như cánh chim bay tới chân trời xa (đi học, đi bộ đội, đi làm ăn?). Cha dặn con, cha khích lệ con, “tuy thô sơ du thịt”, nhưng không thể, không được sống tầm thường, sông “nhỏ bé” trước thiên hạ. Bài học làm người mà cha dạy con tuy ngắn gọn mà thấm thía và lay động biết bao:
Y Phương đã có một cách nói cụ thể, nói bằng hình ảnh mang phong cách dân tộc mình, “người đồng mình”. Lời thơ bình dị, tình cảm chân thành, giọng thơ tha thiết. Cha nói với con, cha dạy con bài học làm người, biết giữ gìn phẩm giá và đạo lí: yêu mến tự hào quê hương, sống có chí khí, sống đẹp như “người đồng mình” đã bao đời nay.
Nói với con là một bài thơ hay thể hiện tình thương con, niềm tin của người cha đối với đứa con yêu quý. Kết thúc bài thơ là tiếng cha khích lệ con lên đường.
Đọc thơ của Y Phương, chúng ta bồi hồi nhớ lại lời ru của mẹ hiền thời thơ ấu:
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Lòng yêu thương con cái, ước mong thế hệ mai sau nối tiếp xứng đáng, phát huy truyền thống của tổ tiên, dân tộc vốn là một tình cảm cao đẹp của người Việt Nam suốt bao đời nay. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương một nhà thơ dân tộc Tày, cũng nằm trong nguồn cảm hứng nhân văn phổ biến ấy.
Đó là một bài thơ mà tác giả mượn lời một người cha chân tình, dặn dò con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, về những đặc điểm tính cách cao đẹp của quê hương, dân tộc với ước muốn đứa con hãy ghi nhớ, phát huy. Điều ấy đã thể hiện qua cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh của người dân miền núi, đem đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, tin cậy:
“Người đồng mình nghe con”
Đoạn thơ được nối tiếp theo sau đoạn cảnh người cha khơi gợi cội nguồn sinh dưỡng giúp đứa con khôn lớn, trưởng thành. Bằng đoạn thơ trên, người cha đã ngợi ca những đức tính cao đẹp của con người quê hương nằm khơi gợi cho con lòng từ hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con hãy tiếp tục xứng đáng với truyền thống ấy.
Bắt đầu đoạn thơ bằng cụm từ “người đồng mình” với ý nghĩa là người vùng mình, người miền mình, cách nói giản dị của miền núi và được lặp đi lặp lại ba lần trong đoạn trích, Y Phương đã gửi vào đó niềm tự hào của mình về những đức tính cao đẹp của người dân miền núi bằng tấm lòng yêu mến vô hạn.
Nếu trên kia “yêu lắm con ơi” là yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây niềm ước vọng càng thêm tha thiết: “thương lắm con ơi”. Tình cảm được nâng lên nhiều lần bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê hương. Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý chí mà người đồng mình đã trải qua.
Người đồng mình không chỉ là những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết lo toan và giàu mơ ước:
Ta dễ dàng nhận ra tính tả thực và phép ẩn dụ tượng trưng đã được nhà thơ vận dụng ở đây. Với phép tả thực, Y phương đã vẽ ra cảnh người dân miền núi mà ở đây dân tộc Tày có cội nguồn sinh dưỡng là những vùng núi cao ngút ngàn, rất hoang vắng và rất buồn bởi cuộc sống nghèo khó, nhọc nhằn. Tuy buồn, tuy khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn bám đất, bám bán làng, vẫn thủy chung cùng quê hương. Và càng ở cao, càng gian khổ mới thấy được tấm lòng quyết tâm gìn giữ cội nguồn sinh dưỡng của người dân miền núi.
Tư duy của người miền núi mộc mạc chân tình hiện lên trong cách so sánh độc đáo. Họ lấy hình sông, lấy dáng dáng để biểu thị vẻ đẹp của tinh thần và lối sống. Cách sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nâng cao mức độ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ, càng quyết tâm chinh phục, vượt qua.
Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, họ luôn tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của dân tộc và không ngừng mơ ước đến tương lai nơi mà chí lớn sẽ vươn tới.
Chính từ niềm mơ ước ấy, người cha đã nhẹ nhàng nhắc nhở đứa con hãy khắc ghi, rèn luyện, phát huy:
Đoạn thơ với những hình ảnh cụ thể như núi rừng quê hương được Y Phương nhắc lại theo phép liệt kê: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “như sông”, “như suối”, “lên thác xuống ghềnh”…”kết hợp với các điệp ngữ: “sống…không chê…”, nhà thơ đã gợi lại cuộc sống vất vả, gian nan đầy thử thách đối với người dân Tày giữa hoang sơ đại ngàn.
Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh đại ngàn của sông núi. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu con người.
Cách gợi của nhà thơ được đặt trong giọng điệu mạnh mẽ, chắc nịch, đầy quyết tâm và niềm tin tưởng. Một lần nữa y Phương trong vai người cha đã nhắc con nhớ rằng người đồng mình, người trong cùng bản làng của mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê hương, cội nguồn.
Thông qua đó, nhà thơ với vai trò người cha mong muốn đứa con phải biết tự hào về truyền thống quê hương, phải luôn tự tin, vững bước trên đường đời:
Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng rất đúng với người miền núi. Tuy “người đồng mình” không mấy đẹp đẽ ở hình thức nhưng luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần lớn lao, không bao giờ nhỏ bé, không bao giờ thôi ước vọng vươn cao.
Lời thơ mộc mạc, giản dị nhưng chứa bao tâm tình. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý chí, về mong ước xây dựng quê hương.
Lời cha giản dị, ân cần trang nghiêm, chắc nịch đã giúp đứa con nhận ra rằng chính nhờ những “người đồng mình” như thế, những con người có ước mơ xây dựng quê hương với những truyền thống, phong tục tốt đẹp:
Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội, bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp của người đồng mình. “Đục đá” là công việc vô cùng nặng nhọc, đòi hỏi phải bền bỉ, nhẫn nại. “Đục đá” vào ý thơ dã trở thành hình ảnh sinh động, gợi cảm. Bởi qua ý thơ, hình ảnh ấy giúp ta hình dung hiện thực người dân lao động miền núi bằng khát vọng và ý chí “đục đá kê cao quê hương” đã tôn tạo vẻ đẹp văn hóa của dân chọi với bao thiên tai, bão lũ, bao bọn giặc hung tàn để gìn giữ, bảo vệ quê hương của cả dân tộc.
Đó là hình ảnh Sơn Tinh (thời Hùng Vương thứ 18) bốc từng quả cũng chính là hình ảnh anh hùng Núp và dân tộc Ba Na anh em đã quyết tâm không khuất phục giặc Pháp bảo vệ cho vùng đất Chư-lây thân yêu, làm nên chiến tích lịch sử. Cách mạng hào hùng cho quê hương, đất nước. Hình dung ra điều ấy, ta mới thấy chi tiết “đục đá kê cao quê hương” là một hình ảnh ấn tượng, chứa chan niềm tự hào cao độ của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu.
Lòng mong muốn ấy còn được thể hiện trong giọng thơ thiết tha, trìu mến bởi ngữ điệu cảm thán: “con ơi”; “đâu con”; ở những lời tâm tình dặn dò:“nghe con” nhưng lại chắc nịch niềm tin của nối nói của người dân miền núi, vừa giàu hình ảnh vừa tự nhiên, xúc động lòng người. từ đó, ta cảm nhận điều lớn lao nhất là người cha muốn truyền lại cho đứa con là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ với quê hương cao đẹp và niềm tin con bước vào đời:
Hành trang của người con mang theo khi “lên đường” không có gì khác ngoài niềm tự hào về quê hương, nguồn cội cùng với ý chí, quyết tâm và hi vọng lớn lao về một ngày mai tươi sáng. Người con lên đường khắc sâu lời cha dặn và không ngừng nhắc nhở mình thực hiện điều tâm nguyện ấy. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời,tiếp nối truyền thống và làm vẻ vang quê hương.
Bằng những từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi cảm, lối nói miền núi mộc mạc, cách ví von sinh động, giọng điệu thiết tha trìu mến, nhịp điệu lúc nhanh lúc chậm đầy khát vọng làm người, đoạn thơ ca ngợi những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, cha mong con sống có tình nghĩa với quê hương, phải giữ đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của cha ông từ bao đời để lại. Hơn nữa, con phải biết chấp nhận gian khó và vươn lên bằng ý chí của mình.
Y Phương đã rất tinh tế khi lựa chọn hình ảnh và giọng điệu khi biểu đạt. Hình như ông đã không hề “mĩ lệ hóa” hay tô vẽ gì thêm cho hình ảnh thơ. Cứ thế, rất tự nhiên, hình ảnh núi non và “người đồng mình” đi vào thơ ông một cách chân thực, hồn nhiên mà sâu sắc đến kì lạ.
Tham khảo trọn bộ 🌳 Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Lấy cảm hứng từ tình yêu thương con và ước mong thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, phát huy những truyền thống của quê hương, dân tộc, nhà thơ Y Phương đã sáng tác bài thơ “Nói với con”. Bài thơ xuất phát từ tình cảm gia đình, mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước. Đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ niềm tự hào, kiêu hãnh về sức sống mạnh mẽ, đức tính tốt đẹp và truyền thống cao đẹp của quê hương, nhắn nhủ người con hãy phát huy truyền trống ấy.
Nếu như trong khổ thơ đầu là sự gợi nhớ về tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương dành cho con thì đến khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói với con về những đức tính cao đẹp của đồng bào mình, dặn dò con phải kế tục và phát huy một cách xứng đáng.
Tiếng gọi “người đồng mình” sao mà thân thương, thân mật và gần gũi đến thế, trong phạm vi nhỏ đó là người cùng một bản, một vùng, rộng hơn đó là người cùng dân tộc cùng một đất nước. “Thương lắm” ở đây không chỉ đơn thuần là tình yêu thương mà còn chứa đựng sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau của con người.
“Cao” và “xa” là khoảng cách của đất trời, cũng chính là những thử thách khó khăn mà người đồng mình phải chiến đấu. Người đồng mình tuy sống trong khó khăn, đói khổ nhưng biết cách vượt lên tất cả, vẫn nuôi chí lớn và không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Mặc dù đá gập ghềnh, mặc cho thung nghèo đói nhưng cha vẫn muốn sống ở nơi mảnh đất quê hương, không vì những thiếu thốn gian khổ mà chối bỏ hay chê bai quê hương. Ngược lại phải lấy đó làm động lực để biết phấn đấu, biết vươn lên trong cuộc sống, làm nên nghị lực phi thường trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Sống như sông, suối nghĩa là sống một cách lạc quan và mạnh mẽ, sống thủy chung với quê hương, biết chấp nhận khó khăn và vượt qua khó khăn bằng chính niềm tin, thực lực của mình.
“Người đồng mình” sống trong vất vả nhưng mạnh mẽ và khoáng đạt, gắn bó chung thủy với quê hương, chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và chiến đấu hết mình với niềm tin và ý chí của mình. Lên thác rồi lại xuống ghềnh, không màng mệt nhọc mà chỉ vững tin vào ngày mai tươi sáng, khi đó mọi khó khăn, đói nghèo sẽ tan biến.
Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” là ẩn dụ cho những cốt cách giản dị, mộc mạc, chất phác thật thà của người dân tộc. Tuy cũng chỉ là con người bình thường bằng da bằng thịt nhưng ý chí và tâm hồn của người đồng mình lại lớn lao chứ không hề “nhỏ bé”.
Truyền thống đục đá kê cao nhà của người đồng mình mang ý nghĩa kê cao nhà cũng là kê cao quê hương, tự hào về quê hương và tự tay mình xây nên những truyền thống tốt đẹp làm cho quê hương giàu đẹp vươn lên. Ngược lại quê hương chính là cội nguồn cho những phong tục tập quán để nâng đỡ, làm động lực cho con người thêm tin yêu, tự hào.
Tiếng gọi “con ơi” tha thiết, tâm tình, nhắn nhủ với con điều lớn lao nhất đó là lòng tự hào dân tộc và niềm tự tin khi con bước vào đời. Đã đến lúc con phải trưởng thành, rời xa quê hương để phát triển, đứng trước mọi hoàn cảnh, mọi khó khăn, con hãy vững tin và phải luôn tự hào với truyền thống của quê hương, hãy tự tin rằng mình không nhỏ bé mà phải vững bước trên đường đời. Hai tiếng “nghe con” là lời nhắn chứa chan tình yêu thương, nồi niềm và sự kỳ vọng con sẽ làm rạng rỡ, vẻ vang quê hương, đất nước.
Với giọng điệu thiết tha, trìu mến và đầy tình yêu thương, nhà thơ Y Phương đã thành công lan tỏa lời tâm tình của mình đến với mọi người. Hình ảnh “người đồng mình” vừa nổi bật lại thật thân thương trìu mến, ai cũng nhận ra mình cũng chính là “người đồng mình”. Từ đó thêm yêu quê hương đất nước, thêm sức mạnh để vươn lên trong cuộc sống, tự hào về truyền thống cao đẹp và vững tin sẽ xây dựng quê hương giàu đẹp bằng chính bàn tay của mình.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay
Trong nền văn học Việt Nam, Y Phương là nhà thơ có phong cách sáng tác vô cùng độc đáo qua tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua bài thơ “Nói với con”. Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con. Đặc biệt, qua khổ thơ thứ hai, tác giả đã ca ngợi sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống tốt đẹp đó.
Bằng lời nói giản dị, mộc mạc gợi bao yêu thương và gần gũi, trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của người đồng mình. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp điệp ngữ thông qua cụm từ “Người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định vẻ đẹp của “người đồng mình” chính là phẩm chất của quê hương. Đặc biệt, trong khổ thơ, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi đã được tác giả vận dụng qua câu thơ: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”.
Bằng lối nói cân xứng, nhịp nhàng, đăng đối giữa hai câu thơ, kết hợp sử dụng những tình từ vốn để diễn tả khoảng cách không gian như “cao”, “xa”, nhà thơ Y Phương đã khắc họa thành công vẻ đẹp của “người đồng mình”. Đó là tầm cao của lối sống tâm hồn và ý chí nghị lực phi thường của người đồng mình. Dù cuộc sống phải trải qua nhiều khó khăn, cực nhọc, nhưng họ vẫn giữ được sự lạc quan cùng niềm vui:
Thông qua biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp hình ảnh so sánh cụ thể “Sống như sông như suối” cùng việc vận dụng các kiểu câu ngắn dài khác nhau, cuộc sống cùng phẩm chất của “người đồng mình” đã được khắc họa rõ nét. Dẫu phải trải qua nhiều khó khăn, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống khoáng đạt, mạnh mẽ như sông như suối. Đặc biệt là luôn giữ vững tinh thần lạc quan, niềm vui đối diện và vượt qua mọi thử thách, gian nan bằng ý chí, nghị lực và niềm tin để gắn bó với quê hương:
Thông qua việc sử dụng động từ “tự đục đá kê cao”, câu thơ đã diễn tả hành động dựng nhà dựng cửa quen thuộc của người miền núi. Tuy nhiên, quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, bởi vậy hình ảnh trên còn là biểu tượng ẩn dụ cho tinh thần tự tôn, ý thức bảo vệ cội nguồn của đồng bào miền núi. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại, họ đang làm nên những phong tục, tập quán tốt đẹp cho quê hương. Câu thơ đã chất chứa niềm tự hào của người cha khi nói về quê hương của mình.
Qua khổ thơ thứ hai, chúng ta còn thấy được ước mong của người cha. Qua câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn”, tác giả đã thể hiện mong muốn con hãy kế tục xứng đáng những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Đặc biệt, người cha mong muốn người con đem những truyền thống tốt đẹp của quê hương trở thành hành trang để con vững bước vào đời:
Bằng những hình ảnh cụ thể, mộc mạc cùng giọng điệu thiết tha, trìu mến, lời dặn dò, nhắn nhủ của người cha đã được thể hiện một cách trực tiếp. Dù con đường phía trước còn nhiều chông gai, và con người chỉ “thô sơ da thịt” nhưng con “không bao giờ nhỏ bé được”.
Câu thơ thể hiện mong muốn người con luôn vững bước trên đường đời bởi hành trang của con có gia đình, quê hương, bởi trong tim con vẫn luôn ẩn chứa những phẩm chất quý báu của người đồng mình. Đồng thời, người cha mong con hãy tự tin bước vào đời, hãy kế tục và phát huy xứng đáng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Lời cha dặn là lời gửi trao thiêng liêng là lời chuyển giao của các thế hệ người Việt Nam.
Như vậy, thông qua khổ thơ thứ hai, tác giả Y Phương đã khắc họa thành công những vẻ đẹp, phẩm chất của con người, quê hương. Qua đó gửi gắm bức thông điệp về ý chí, nghị lực cùng niềm tin, ước mong con vững bước, trưởng thành và sống xứng đáng với quê hương. Tình yêu thương đối với người con đã hòa với tình yêu dân tộc, quê hương, tạo thành một tình cảm thiêng liêng, cao đẹp.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Nói Với Con 🌹 16 Bài Cảm Nghĩ Hay Nhất
Quê hương là đề tài quen thuộc và trở thành nguồn cảm hứng bất tận để người nghệ sĩ thể hiện tình yêu sâu sắc, thấm thía. Nếu nhà thơ Đỗ Trung Quân bày tỏ tình cảm đó bằng những vần thơ tha thiết cùng giai điệu êm dịu “Quê hương là chùm khế ngọt – Cho con trèo hái mỗi ngày…” thì tác giả Y Phương lại giãi bày tình yêu thiêng liêng đó thông qua những lời tâm tình của người cha dành cho người con.
Tình cảm cha con, gia đình đã được khái quát thành tình cảm quê hương hết sức tự nhiên. Điều này đã được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai của bài thơ. Tác giả đã ngợi ca sức sống, những phẩm chất cao đẹp của người miền núi cùng mong ước thế hệ sau nối tiếp, phát huy những truyền thống của dân tộc, quê hương.
Tác giả vẫn sử dụng lối nói giàu hình ảnh “người đồng mình” – cách xưng hô quen thuộc, trìu mến của người vùng cao để gợi lên sự thân thương, gần gũi nhưng cùng chung một gia đình. Hệ thống từ ngữ chọn lọc, đặc biệt là động từ “thương” kết hợp với từ chỉ mức độ “lắm” để thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia về tinh thần đối với những những khó khăn, vất vả, sóng gió. Để vượt qua những điều đó, con người quê hương đã đo nỗi buồn bằng độ cao của bầu trời vời vợi, lấy xa của đất để làm thước đo đong đếm ý chí con người.
“Cao” và “xa” trong không gian đất trời đều là những khoảng không hữu hạn không điểm dừng, gợi lên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp cùng sự rộng lớn, xa xăm. Sự chọn lọc ngôn ngữ tài tình, điêu luyện của nhà thơ đã thể hiện sự tăng tiến của ý chí con người: khó khăn, thử thách càng lớn thì bản lĩnh “người đồng mình” càng trở nên mạnh mẽ hơn, vượt qua cuộc sống đói nghèo, cơ cực của “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”.
Trải qua mọi thiếu thốn, họ vẫn lạc quan, mạnh mẽ “sống” với tâm hồn phóng khoáng như thiên nhiên: “Sống như sông như suối”. Tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập “lên thác” – “xuống ghềnh” để thể hiện một cuộc sống lam lũ, vất vả chốn núi rừng. Từ đó, nhà thơ đã khái quát những vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:
Cách gọi thân thương “Người đồng mình thô sơ da thịt” ẩn chứa niềm tự hào về những con người giản dị, chất phác, thật thà, đồng thời là lời ngợi ca ý chí, cốt cách không hề “nhỏ bé” của họ. Phẩm chất tốt đẹp của người dân miền cao đã được phác họa trong một tầm vóc kì vĩ, lớn lao hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài “thô sơ da thịt”.
Đặc biệt, cách nói hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” tạo nên một lối nói độc đáo, vừa diễn tả quá trình dựng nhà, dựng cửa làm nên truyền thống của người miền núi, vừa là hình ảnh ẩn dụ diễn tả ý thức tự tôn, tinh thần đề cao, nâng tầm, làm giàu đẹp mảnh đất quê hương. Những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa của quê hương chính là điểm tựa tinh thần nâng đỡ và tạo động lực cho con người vượt qua mọi gian nan, thử thách.
Sau khi nêu bật những phẩm chất của “người đồng mình” bằng giọng điệu ngợi ca, tự hào, tác giả Y Phương đã khép lại bài thơ bằng những lời dặn dò ân cần, trìu mến:
Trong những câu thơ chan chứa tình yêu thương, chúng ta có thấy được niềm tin yêu, hi vọng mà người cha đã gửi gắm. Đó là mong ước khi khôn lớn, trưởng thành, tự tin “Lên đường” sải bước trên đường đời, người con vẫn khắc sâu những phẩm chất của “người đồng mình” và “không bao giờ được nhỏ bé” để bản lĩnh, kiên cường mạnh mẽ bước qua những gian khó, thử thách của cuộc đời. Lời dặn dò vì thế trở thành một bài học quý giá và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong mọi thời đại.
Như vậy, bằng tài năng trong việc sử dụng ngôn từ, hình ảnh, tác giả Y Phương đã làm nổi bật những vẻ đẹp, phẩm chất cao quý của “người đồng mình”. Tất cả đã được thể hiện thông qua thể thơ tự do phù hợp với lối nói, tư duy khoáng đạt của người miền núi cùng giọng điệu thơ linh hoạt cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Khổ Thơ Đầu Bài Nói Với Con 🌼 10 Bài Hay Nhất
Tình mẫu tử là một đề tài luôn được nhắc đến nhiều nhất trong thơ ca. Thế nhưng, không chỉ tình mẫu tử, tình phụ tử cũng là thứ tình cảm thiêng liêng bậc nhất của cuộc đời mỗi con người. Hiếm có tác phẩm nào trong thơ ca về tình phụ tử lại ý nghĩa và thật nhiều cảm xúc như tác phẩm “Nói với con” của Y Phương. Bài thơ là tiếng lòng chân thành của người cha cất lời khuyên dạy người con của mình, chứa đựng trong đó là những chiêm nghiệm về cuộc đời, những triết lý sống mà người cha dành cho đứa con của mình.
Bài thơ “Nói với con” bao gồm hai khổ thơ, khổ thứ nhất nói về tình yêu thương của mẹ cha, gia đình dành cho con khi còn nhỏ còn khổ thơ thứ hai là lời khuyên dạy về những đức tính cần có trong cuộc sống đồng thời là lời dặn dò đứa con về bản lĩnh trước những sóng gió của cuộc đời. Có thể nói, khổ thơ thứ hai chính là khổ thơ bao trùm ý nghĩa của cả bài thơ, mang đến cho chúng ta những cảm xúc chân thành nhất của những con người vùng núi Tây Bắc Việt Nam:
Khổ thơ đầu, Y Phương đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên có rừng, có hoa, có những vách nhà cùng tiếng hát, ở đó có cộng đồng những người dân tộc sống hòa bình cùng nhau. Ông gọi họ là “người đồng mình” – tiếng gọi ấy nghe thật thân thương, thân thuộc. Quê hương, đồng bào là những phần tất yếu, tốt đẹp nhất nuôi dưỡng con người trưởng thành, khôn lớn. Có lẽ vì vậy nên ở khổ thơ thứ hai này, Y Phương mở đầu bằng lời cất gọi con với ba chữ “người đồng mình”:
Đó là một lời nhấn giọng gọi con vừa ngọt ngào lại đầy thiết tha. “Người đồng mình” tức là người đồng bào của mình, những người được sinh ra cùng từ bọc trăm trứng của mẹ u Cơ, là những người Kinh, người Tày, người Nùng, … Tuy tên gọi khác nhau, nhưng chúng ta có chung cùng nguồn gốc, nơi nước non Cao Bằng, Bắc Cạn, nơi “gạo trắng nước trong”.
Tác giả đã sử dụng cách gọi thật thân thương để gọi những người đồng bào của mình. Nếu như ở khổ trên, người cha đã gọi “người đồng mình yêu lắm con ơi”, đó là tình yêu tha thiết với bản làng, với những con người chân thành, giản dị thì ở đây, ông lại gọi rằng “người đồng mình thương lắm con ơi” để thể hiện một niềm khát vọng tha thiết.
Từ “yêu” đến “thương”, đó là khoảng cách mà tình cảm được nhân lên gấp nhiều lần, thương con người, thương những nỗi khó nhằn, gian khổ mà bản làng quê hương đã gánh chịu. Qua đó, người cha biểu hiện nỗi lòng của mình, vừa yêu thương vừa tự hào về những “người đồng mình”. Bởi họ không chỉ là những con người giản dị, tài hoa, biết “đan lờ cài nan hoa” mà còn là niềm tự hào bởi họ biết lo toan, biết ước mơ cao rộng:
Có thể nhận thấy, nghệ thuật ẩn dụ và tả thực được Y Phương vận dụng một cách tinh tế, khéo léo trong hai câu thơ này. Xét về hướng tả thực, ta biết những người dân tộc Tày miền núi luôn sống ở vách núi, những thung lũng cao sâu.
Núi rừng là nguồn sống tuy có vất vả, có khó khăn, thế nhưng họ luôn kiên cường bám đất, bám bản, quyết không rời xa mảnh đất quê hương của tổ tiên. “Người đồng mình” không bao giờ khuất phục trước khó khăn, thử thách, càng khó khăn thì chí lại càng bền, tâm lại càng tỏ hơn nữa. Đó cũng là những đức tính cha muốn con học được từ những người dân quê hương mình.
Tư duy của những người miền núi thật giản dị, với họ chẳng gì cao bằng núi, chẳng gì xa rộng bằng “thung”. Họ đã lấy chính những hình ảnh thân thuộc nhất ấy để gợi lên chí khí và ước mơ của mình. Với Y Phương, cách sắp xếp từ theo hướng tăng dần, từ “cao” rồi đến “xa”, biểu thị rằng càng khó khăn, càng là thử thách lớn thì càng phải vượt qua.
Cuộc sống của “người đồng mình” còn nhiều điều vất vả, nhiều “nỗi buồn”, còn nhiều thiếu thốn trăm bề, thế nhưng họ vẫn nuôi trong mình “chí lớn”, luôn mơ ước tới mai sau, đó là tương lai rạng rỡ, tốt đẹp của dân tộc.
Từ niềm ước mơ khôn xiết ấy, người cha lại thủ thỉ, nhắc nhở đứa con của mình, hãy sống, rèn luyện và khắc ghi những đức tính cao đẹp của con người quê hương ta:
Người dân tộc miền núi luôn chọn những đỉnh núi cao, những thung lũng sâu trong núi rừng để lập nên bản làng của mình. Vậy nên, cuộc sống của họ thường ngày đều là hoặc trên những đỉnh núi đá gập ghềnh, trắc trở, hoặc ở dưới thung sâu, hoặc ở trên những con suối, con sông. Thế nhưng, ở đâu, họ cũng đều thích nghi, đều có thể tồn tại, vươn lên bằng ý chí và nghị lực của mình.
Ở đây, người cha muốn đứa con của mình học tập những đức tính đó của cha ông, sống ở nơi đâu cũng không được lùi bước trước khó khăn, phải tập thích nghi trước hoàn cảnh. Y Phương cũng sử dụng ở đây một loạt những phép liệt kê nào “đá gập ghềnh”, nào “thung nghèo đói”, nào “lên thác xuống ghềnh”, … để chỉ ra những khó khăn, vất vả, gian nan trong cuộc sống của những người dân tộc giữa đại ngàn hoang sơ.
Thế nhưng, ông cũng nói rằng “không chê” tức là tự hài lòng, tự chấp nhận những khó khăn, vất vả ấy để rồi từ đó vươn lên một cách thật mạnh mẽ. Điệp từ “không chê” được lặp lại như để nhấn mạnh sự nhắc nhở mà người cha dành cho con mình. Ông muốn đứa con yêu của mình phải biết chấp nhận thực cảnh để rồi thích nghi, vươn lên chứ không lùi bước trước thử thách cuộc đời.
Tiếp theo là phép so sánh “sống như sông như suối”, một là người cha muốn nhắc nhở đứa con của mình phải luôn sống mạnh mẽ trước cuộc đời, hai nữa là để gợi tả lên vẻ đẹp tâm hồn, ý chí của những người con núi rừng Tây Bắc. Sống giữa cái khó khăn của đại ngàn, của những vất vả thế nhưng họ vẫn luôn mang trong mình một tâm hồn tràn trề sinh lực, sức sống, với ý chí sắt đá, cuồn cuộn như dòng suối, dòng sông.
Cách nói của nhà thơ, cách so sánh, gợi tả thật quá đỗi giản dị. Nó như là một câu chuyện nhẹ nhàng, lời khuyên bảo chân thành dành cho đứa con yêu quý của mình. Thế nhưng chứa đựng trong đó xiết bao niềm tự hào về phẩm chất, ý chí của “người đồng mình”.
Ông luôn luôn khẳng định rằng, dù “người đồng mình” có phải chịu cuộc sống vất vả, khó khăn, gian nan thì vẫn luôn mực gắn bó, thủy chung với quê hương, xứ sở của mình, vượt qua tất cả khó khăn đó mà vươn lên trong cuộc sống. Và qua đó, ông cũng nhắc nhở đứa con của mình phải luôn biết tự hào về truyền thống của quê hương và phải luôn giữ cho mình những đức tính đáng trân trọng ấy.
Không chỉ nhắc nhở đứa con của mình về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”, người cha còn ca ngợi phẩm chất của họ rằng:
Y Phương đã tạo nên hình ảnh tương phản đối xứng qua hai câu thơ để ca ngợi cái phẩm chất ẩn chứa bên trong cái hình thức bên ngoài. “Người đồng mình” chẳng đẹp đẽ về hình thức “thô sơ da thịt” thế nhưng ở trong họ luôn ẩn chứa một sức mạnh tinh thần to lớn, khát vọng mãnh liệt được vươn cao vươn xa. Chính cái sức mạnh ấy làm nên con người họ, khiến họ trở lên thật cao lớn, chẳng thể nào nhỏ bé được.
Lời thơ của Y Phương là lời của người cha đang thủ thỉ cùng đứa con của mình, vậy nên chúng ta cảm nhận được ở trong đó sự chân thành, giản dị, ân cần nhưng cũng đầy nghiêm khắc. Ông muốn nhắc đứa con phải biết sống cho đúng, cho đủ, phải học tập, rèn luyện những phẩm chất, đức tính của cha ông để vượt lên những sóng gió của cuộc đời.
Những “người đồng mình” tuy “thô sơ da thịt” nhưng chứa chan trong họ là khát vọng xây dựng lên quê hương của mình thêm vững vàng:
Chỉ đôi câu thơ nhưng đã khái quát lên cả cái tinh thần tự hào tự tôn của dân tộc, cái ý thức bảo vệ quê hương, non sông, cội nguồn, bảo vệ những phong tục, những truyền thống của cha ông để lại. “Người đồng mình tự đục đá” – “đục đá” là một công việc vất vả, gian lao, nặng nhọc, đòi hỏi trong đó sự bền bỉ, kiên trì, nhẫn nại, siêng năng. Vậy mà “người đồng mình” suốt bao năm tháng “tự đục đá kê cao quê hương”, đây là hình ảnh thơ hết sức chân thực, hết sức sinh động.
Những người dân miền núi bằng ý chí, bằng khát vọng của mình “tự đục đá kê cao quê hương” để bảo vệ quê hương, bản làng trước thiên tai, lũ lụt và cũng là để bảo vệ quê hương trước kẻ thù xâm lăng. Hình ảnh thơ ấy thật đẹp đẽ biết bao, chính những người dân miền núi”thô sơ da thịt” ấy đã tạo nên vẻ đẹp văn hóa, phong tục rất riêng của mình.
Hình ảnh “tự đục đá” ấy cũng gợi cho chúng ta thật nhiều về những truyền thuyết của cha ông, khi Sơn Tinh bốc từng ngọn núi ném xuống biển, là hình ảnh của những người anh hùng như anh hùng Núp, như Kim Đồng, … với một lòng quyết tâm đánh giặc tạo nên bản hùng ca cho cả dân tộc ta. Chỉ bằng chi tiết này thôi cũng cho chúng ta thấy được sự tự hào đến vô cùng của nhà thơ đối với dân tộc thân yêu của mình.
Đến cuối cùng, sau những lời khuyên bảo, răn dạy, ngợi ca, bằng giọng thơ trìu mến, thân thương, người cha dặn dò đứa con của mình trước lúc “lên đường”:
“Con ơi” – tiếng gọi ấy thật thân thương, thật ngọt ngào biết mấy. Hành trang mà người cha muốn trao tặng đứa con của mình trước khi “lên đường” là niềm tin, là lòng tự hào về dân tộc của mình, về nguồn cội, quê hương của mình. Tuy “người đồng mình” chúng ta chẳng đẹp đẽ về hình thức “thô sơ da thịt”, thế nhưng chúng ta sẽ luôn luôn ngẩng cao đầu, “không bao giờ nhỏ bé được”.
Kết lại bài thơ, hai tiếng “nghe con” sao mà xúc động đến thế? Đó là niềm tin chắc nịch của người cha dành cho con, niềm tin của một người miền núi với quê hương, núi rừng của mình. Và đứa con lên đường với hành trang cha tặng in dấu sâu đậm trọng tâm trí, hi vọng rằng đứa con sẽ luôn vững vàng, tiếp nối truyền thống của cha ông, làm vẻ vang cho dân tộc mình.
Lời thơ của Y Phương không chỉ giản dị, mà còn vô cùng chân thành, lối nói chuyện của người dân miền núi thật mộc mạc, cùng với đó là giọng điệu tha thiết, ngọt ngào, lúc khuyên răn, dạy bảo, lúc dặn dò với lòng mong mỏi. Đoạn thơ là lời ca ngợi những đức tính của người dân tộc miền núi với những phẩm chất cao đẹp cùng lòng tự hào tự tôn dành cho quê hương. Đồng thời, nhà thơ cũng mượn lời người cha để răn dạy chúng ta về đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của cha ông và tinh thần vượt khó, biết chấp nhận gian khổ.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Khổ 1 Nói Với Con ☀️ 12 Bài Mẫu Khổ Đầu Hay Nhất
Y Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, ông sinh ra và lớn lên tại tỉnh Cao Bằng- cái nôi văn hóa của người Tày. Có lẽ chính vẻ đẹp của non nước Cao Bằng hùng vĩ, nên thơ cũng như bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Tày đã thấm sâu vào tâm hồn nhà thơ, góp phần làm nên chất nghệ sĩ trong ông.
Với quan niệm nghệ thuật đa chiều cùng cảm quan tinh tế của người nghệ sĩ, ông đã để lại cho văn học nước nhà nhiều bài thơ hay. Một trong số đó phải kể đến thi phẩm Nói với con- một bông hoa trong sáng và tinh khôi viết về cuộc sống và con người nơi miền Đông Bắc của Tổ Quốc. Khổ hai bài thơ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp của “người đồng mình”.
Với người cha, tâm hồn con không chỉ được nuôi dưỡng bởi văn hóa độc đáo của quê hương, được bao bọc, chở che bởi thiên nhiên thơ mộng, hữu tình mà hơn thế con còn được sống trong tình cảm nồng hậu, nghĩa tình của người quê hương. Cơ thể con, tiếng nói con, sức sống của con được bồi đắp bao vẻ đẹp phẩm chất của “người đồng mình”:
“Người đồng mình” là cách gọi gần gũi, thân thiết chỉ những người cùng sinh sống trên một mảnh đất, vùng quê. “Người đồng mình” – nghe sao thân thương đến lạ!, thật gần gũi, thật tự nhiên biết bao. Ở đây, mọi người đều sống chung trong một gia đình lớn, luôn bảo vệ và chia sẻ với nhau, thấu hiểu cả những nhọc nhằn vất vả, những mong ước và chí nguyện của nhau.
Người đồng mình “thương lắm ”, “thương” bởi cuộc sống còn nhiều gian khó, “thương” bởi những nhẫn nại, âm thầm, “thương” cả ý chí, bản lĩnh của người đồng mình trên mảnh đất quê hương. “Thương” ở đấy chính là sự cảm thông, thấu hiểu và sẻ chia.
“Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”
Tác giả đã sử dụng các tính từ “cao”, “xa”- những tính từ đặc tả không gian địa lý của vùng đất Cao Bằng, nơi mà “người đồng mình” đang sống. Một chốn không gian xa phố thị phồn hoa, nơi đây chỉ có núi cao hiểm trở. Tính từ “cao”, “xa” còn để chỉ nỗi buồn và chí lớn của con người nơi đây. Người đồng mình nén “nỗi buồn” ở lại để “chí lớn” đi xa. Tác giả đã mượn chiều kích của không gian để thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng, thể hiện sự bền gan, vững chí của “người đồng mình”.
Lời thơ giản dị thấm đẫm lòng tự hào của người cha khi kể về “người đồng mình”, qua đó, ta còn thấy được một trái tim nhạy cảm, một tâm hồn đồng điệu của tác giả với nhân dân mình, hiểu và thương cuộc sống của nhân dân mình. Từ tiếng thơ tự hào ấy, tác giả cất tiếng lòng mình gửi gắm mong muốn đến con, rằng con hãy sống một cuộc đời bản lĩnh, sống ân nghĩa, thủy chung, tiếp nối những giá trị vĩnh cửu của “người đồng mình”:
Ba tiếng “dẫu làm sao” chất chứa cả những nhọc nhằn, vất vả của cuộc sống, chứa đựng cả những đấu tranh tâm lý bên trong người cha. “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” là một nốt lặng thiết tha nhưng cũng là một tiếng nói đầy quyết liệt, mong muốn con hãy gìn giữ và phát huy những giá trị làm người cao quý của “người đồng mình”. Những tính từ “gập ghềnh”, “nghèo đói”, thành ngữ” lên thác xuống ghềnh” càng khắc họa những gian nan, trắc trở, những bấp bênh, vất vả của cuộc sống.
Đó là những thử thách mà bất kì ai cũng sẽ phải trải qua, bởi vậy mà cha mong con hãy dùng bản lĩnh để vượt qua. Điệp từ “sống” đứng đầu câu kết hợp với các từ phủ định “không chê” đã khẳng định một thái độ sống đầy tích cực trên hành trình cuộc đời. Hình ảnh so sánh độc đáo “sống như sông như suối’ mang trong đó cả một lời khuyên ý vị của cha cho con, rằng con hãy sống một cuộc đời tự do, rộng mở, dẫu bao thác ghềnh vẫn vượt qua, tưới mát đời bằng những giọt trong xanh.
“Người đồng mình” được tiếp tục sử dụng khẳng định sự gắn kết thiêng liêng của con với con người quê hương mình. Biện pháp tương phản qua hai hình ảnh “thô sơ da thịt” và “chẳng mấy ai nhỏ bé” đầy mộc mạc, giản dị càng tô đậm ý chí, nghị lực phi thường của người lao động nơi đây. Ở họ luôn khao khát được vươn ra biển lớn, luôn sống với những ước mơ, hoài bão của mình khát khao vươn đến những điều tốt đẹp.
Nét vẽ gân guốc “người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” khắc họa rõ nét tinh thần tự lực, tự cường, dựng xây quê hương giàu đẹp, bằng bàn tay và khối óc của mình họ hun đúc nền văn hóa độc đáo cho chính dân tộc mình. Quê hương cũng vậy, càng giàu đẹp, thịnh vượng thì đời sống con người càng thay đổi, vui tươi và hạnh phúc. Những câu thơ cuối khổ là khúc hát lên đường cũng là lời nhắn nhủ đầy tâm tình của cha:
Giọng diệu thiết tha, trìu mến, chất chứa tin yêu của cha trên hành trình con đi phía trước. “Lên đường” – hành động ấy con phải thực hiện trong tư thế chủ động, lấy phẩm chất của “người đồng mình” để vượt gian khó trên mỗi bước đường con đi. Chúng ta có thể còn “thô sơ” còn nghèo khó, còn cực khổ, còn vất vả, còn thiếu thốn nhưng không bao giờ “nhỏ bé”.
Chúng ta sống trên đá, mang vóc hình của núi đá, vì vậy hãy mang cả ý chí mạnh mẽ, sự cứng cỏi và kiên cường của đá núi để tự tin bước vào đời. Hãy sống một cuộc đời đường hoàng, bản lĩnh, tự tin để xứng đáng với gia đinh đình, với quê hương mình.
Bằng thể thơ tự do, giọng điệu thiết tha, trìu mến, những hình ảnh giản dị, mộc mạc, mà chân thực, giàu chất thơ, Y Phương đã viết nên những vần thơ đầy đẹp đẽ. Đoạn thơ đã gợi nhắc trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với con người, với truyền thống đẹp đẽ của quê hương, dân tộc mình và nuôi dưỡng ý chí vượt lên khó khăn để vững bước vào đời.
Mời bạn tham khảo 🌠 Cảm Nhận Khổ 2 Bài Nói Với Con 🌠 12 Bài Cảm Nghĩ Hay
Y Phương sinh năm 1948, tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là nhà thơ người dân tộc Tày. Ông nổi tiếng với lối viết tự nhiên, giàu hình ảnh, lời thơ trong sáng, tự nhiên, giản dị, mang đậm âm hưởng của người dân tộc miền núi phía Bắc. Y Phương là một trong số ít các nhà thơ dân tộc thiểu số có tác phẩm được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam.
Nói với con là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà thơ, với cách viết gần gũi thông qua lời tâm tình của người cha với đứa con nhỏ, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã kín đáo bộc lộ được vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của người đồng mình trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dẫu còn nhiều khó khăn vất vả.
Nếu như ở khổ thơ thứ nhất tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp của người đồng mình thông qua cuộc sống lao động, trong những nét phong tục tập quán đặc sắc, thì đến khổ thơ thứ hai tác giả tập trung vào những nét đẹp tâm hồn, phẩm chất quý giá của người đồng bào dân tộc miền núi phía Bắc:
Tác giả tiếp tục sử dụng cụm từ “người đồng mình” tức là chỉ dân tộc mình, thể hiện sự gắn kết, thân thuộc của những con người có cùng nguồn cội, chung sống hòa hợp với nhau như một đại gia đình. Chính vì thế khi đóng vai trò là một thành viên trong gia đình lớn ấy người cha đã nói lên mấy chữ “thương lắm con ơi” thể hiện tấm lòng đồng cảm sâu sắc, thấu hiểu cho những nỗi vất vả, khó nhọc của những con người sống tận nơi vùng núi xa xăm.
Thế nhưng những khó khăn của hoàn cảnh cũng chẳng ngăn được ý chí, tấm lòng của họ, “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. “Cao” và “xa” là hai từ ngữ ám chỉ khoảng cách địa lý và không gian sinh sống của người đồng mình với những điều kiện hết sức khó khăn. Đó là nơi rừng sâu, núi cao đầy hiểm trở, lại xa xôi so với phố thị đồng bằng, phương tiện qua lại hầu như hiếm hoi.
Thế nhưng không vì thế mà “người đồng mình” chịu lùi bước, cam chịu cuộc sống vất vả, lầm lũi, mà trái lại chính những điều kiện ngặt nghèo, không gian sống đặc biệt đã trở thành nền tảng nuôi dưỡng trong lòng họ ý chí vượt khó mạnh mẽ, sự cố gắng không ngừng nghỉ. Câu thơ “Xa nuôi chí lớn” dù ngắn ngủi, giản đơn nhưng bộc lộ rõ ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, không ngại gian khó của người đồng mình trong cuộc sống.
Lời thơ mộc mạc, chất liệu thô sơ nhưng thể hiện thật chân thành tấm lòng thương cảm ngậm ngùi của tác giả đối với cuộc sống của người đồng mình, đồng thời là tấm lòng lòng tự hào trước những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của dân tộc. Từ đó người cha nhắn nhủ với đứa con của mình những lối sống đẹp đẽ, cần phải học tập và phát huy để có thể kế thừa truyền thống, lập nên ý chí kiên cường của bản thân, hòa vào sức mạnh dân tộc mình.
Lời người cha dặn con nghe thật giản dị, mà thấm thía với các chất liệu tự nhiên như hình ảnh sông, suối, núi đá, thác ghềnh, thung lũng,… Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi giúp cho vần thơ thêm phần tự nhiên, chân chất, gây ấn tượng mạnh với độc giả. Lời dạy của một người cha đối với đứa con nhỏ thật sâu sắc, cảm động, cha không dạy con những thứ gì quá xa xôi mà nói với con bằng những vật thể tự nhiên gắn liền với đời sống, lối so sánh giản dị, dễ dàng khắc ghi vào đầu trẻ thơ.
Khuyên con rằng dẫu sống ở đâu là núi đá hay thung sâu cũng đừng bao giờ ghét bỏ, chùn bước trước điều kiện khó khăn vất vả. Thay vào đó hãy tìm cách khắc phục chúng, tìm cách thích nghi, linh hoạt như sông suối chảy từ rừng sâu, dù trải qua thác ghềnh, muôn vàn khó khăn, nhưng cuối cùng vẫn vươn ra biển lớn.
Trong cuộc sống này cũng vậy, đặc biệt là khi con sinh ra và lớn lên ở vùng núi phía Bắc xa xôi thì lại càng phải kiên cường, cố gắng gấp bội, không chỉ là phục vụ cuộc sống, mà còn phải góp sức xây dựng quê hương sớm ngày giàu mạnh. Không chỉ đơn thuần là lời khuyên cha dành cho con, mà ở những câu thơ này tác giả cũng khéo léo thể hiện vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình, ấy là sự thích nghi với mọi hoàn cảnh, không ngại gian khó, sẵn sàng đối mặt với sự thiếu thốn, cư trú ở nơi hiểm trở mà vẫn vui vẻ sinh sống làm ăn.
Không chỉ ở ý chí vượt khó, sự kiên cường trong tâm hồn mà vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình còn được thể hiện thông qua những phong tục tập quán có từ bao đời nay rằng:
Tuy rằng người dân tộc thiểu số phía Bắc những năm sau kháng chiến còn khó khăn nhiều, trong công cuộc lao động họ chủ yếu dùng chính đôi bàn tay không để sản xuất, khai hoang đất đai, tạo lập cuộc sống mới, xây dựng quê hương mình. Sự chai sần của từng đôi tay lao động và những vóc người nhỏ bé đã làm nên một vùng trời phía Bắc ngày càng trù phú, tốt đẹp.
Và để khẳng định sự nỗ lực, kiên cường trong lao động sản xuất ấy, Y Phương đã tinh tế viết rằng “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”, ý rằng dẫu chỉ có đôi bàn tay không, với vóc người nhỏ bé, thế nhưng ý chí của người đồng mình luôn lớn lao, vững vàng hơn tất cả.
Sống trên núi đá hoang sơ, cằn cỗi, đôi bàn tay chai sần “tự đục đá kê cao quê hương”, làm nên diện mạo mới cho, cuộc sống mới cho dân tộc mình, tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương xứ sở, dẫu rằng còn lắm gian lao vất vả và hơn hết là cần một sự kiên trì mạnh mẽ.
Nối tiếp câu thơ sau “Còn quê hương thì làm phong tục”, hai từ “quê hương” ở đây không đơn thuần là chỉ một vùng đất, mà nó còn là đại diện cho lớp lớp những con người đi trước đã tạo dựng, kết tinh, để lại cho thế hệ sau nhưng giá trị văn hóa, những phong tục truyền thống tốt đẹp. Trở thành bản sắc dân tộc, là thứ mà người đồng mình luôn cố gắng giữ gìn, đồng thời cố gắng phát huy hơn nữa, để nâng lên tầm vóc quê hương, xứ sở mình.
Nói với con là một trong những tác phẩm viết về đề tài người dân tộc miền núi phía Bắc đặc sắc và đáng chú ý nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Bằng lối tư duy trong sáng, sinh động, lời thơ giản dị mang âm hưởng miền núi, chất liệu thơ lấy từ cuộc sống sinh hoạt, gần gũi, chất phác, tác phẩm đã mang đến cho người đọc những cảm nhận độc đáo.
Nó không chỉ đơn thuần thể hiện tình yêu thương tha thiết người cha dành cho đứa con nhỏ bằng những lời dạy vừa dịu dàng vừa nghiêm khắc, mà hơn thế nữa thông qua đó tác giả còn thể hiện được những vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn đáng quý của người đồng mình, những con người luôn nỗ lực, cố gắng, ý chí kiên cường trong cuộc sống, bền bỉ trong lao động để xây dựng quê hương, đất nước.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Khổ Thơ Cuối Bài Nói Với Con 🌼 10 Bài Hay Nhất
Ai đã đọc qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương hẳn sẽ xuất hiện không ít cảm xúc, nỗi xúc động về tình cảm gia đình cũng như tình quê hương thắm thiết. Nổi bật trên nền cảnh núi rừng Tây Bắc là vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cần cù nhẫn nại, gắn kết muôn đời với quê hương, với cội rễ sinh thành khiến ta thêm trân trọng và mến yêu được thể hiện rõ nét qua đoạn 2 bài thơ.
Ở đoạn 2 bài thơ “Nói với con”, Nhà thơ Y Phương đã dùng những lời thơ mộc mạc, chân thành để khắc họa hình ảnh “người đồng mình” trong mối liên hệ giữa con người và nguồn cội sinh thành. Tuy cuộc sống khó khăn, gian khổ, nhưng lúc nào họ cũng ngời sáng ý chí vươn lên:
Từ “thương lắm” xuất phát từ tấm lòng đồng cảm, tri ân những con người đã bao đời làm nên bản sắc của cuộc sống “người đồng mình”. Giữ đại ngàn bao la, “người đồng mình” muôn đời vẫn không thôi ước vọng vươn cao, vươn xa. Cách dùng đảo ngữ tinh tế khiến cho lời thơ thanh thoát lạ thường.
Dù biết là khó khăn, nhưng ước mơ không bao giờ vơi cạn. Đó chính là nguồn cội sức mạnh giúp họ sinh tồn và vươn tới cuộc sống tươi đẹp. Y Phương thấu hiểu, trân trọng và lấy điều đó làm bài học dạy con. Một lần nữa, vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” hiện lên thật cao đẹp:
Biện pháp điệp cấu trúc “sống – không chê” và nghệ thuật so sánh vẽ ra hình ảnh cuộc sống của người đồng mình đầy khó nhọc nhưng hào hùng, mạnh mẽ. Cuộc sống có thể gian khổ nhưng tâm hồn lúc nào cũng thanh cao, lạc quan, yêu đời. Họ biết chấp nhận và trân trọng cuộc sống vốn có; biết cải tạo nó theo chiều hướng tốt đẹp và gìn giữ cho muôn đời sau. Càng khó khăn, gian khổ, họ càng biết nương tựa vò nhau, dựng xây một lối sống bao dung, hài hòa với thiên nhiên:
Với giọng điệu dịu dàng, yêu thương và trìu mến, cùng cách diễn tả mộc mạc, chất phác đúng chuẩn chất giọng dân tộc Tày – quê hương tác giả, ở vùng Cao Bằng cùng với lối ví von, so sánh thường thấy trong trong các bài thơ dịu nhẹ, Y Phương đã chỉ ra được nét đặc sắc qua lời tâm tình của người cha đối với con.
Con thường được lớn lên trong sự chở che, nuôi dưỡng của cha mẹ. Với cách tư duy riêng, tác giả đã nói lên sự vất vả ở các vùng quê miền núi khó khăn, “gập ghềnh”, “nghèo đói”. Đó cũng là niềm tự hào, lời ca ngợi vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” mà nhà thơ đã dành tặng cho quê hương, dân tộc mình.
Tính cách người miền núi lại vô tư, không toan tính hay ích kỉ, keo kiệt, giữ của cho riêng mình cho riêng mình. Họ có gì họ cho nấy. Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi lên vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người đồng mình: đó là sức sống mạnh mẽ, bền bỉ. Tuy gian nan và cực nhọc, họ vẫn ngập tràn khí phách, tâm hồn lãng mạn, khoáng đạt như hình ảnh bạt ngàn của sông núi. Tuy mộc mạc và giản dị nhưng lại giàu có về ý chí, tâm hồn. Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối không bao giờ cạn, niềm tin yêu cuộc sống, con người.
Một lần nữa, “người đồng mình” được lặp lại với biết bao trìu mến. Người đồng mình “tuy thô sơ da thịt” nhưng “chẳng mấy ai nhỏ bé”. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, “người đồng mình” cũng luôn đề cao danh dự, nhân phẩm và biết gìn giữ, bảo vệ lấy như chính sinh mệnh của mình. Họ không vì đời sống vật chất mà đánh đổi lương tâm, phản bội núi rừng, phản bội quê hương. Từng hoạt động sống khắc ghi vào đá núi, khắc ghi vào sông suối, khắc ghi vào trí nhớ mỗi con người và biến thành phong tục, cách sống, cách ứng xử của cả cộng đồng:
Niềm tự hào về sức mạnh sinh tồn và vẻ đẹp văn hóa “người đồng mình” khiến cho lời thơ càng thêm tha thiết. Tuy đó chưa hẳn là những giá trị lớn lao khi so sánh với những giá trị tương đồng nhưng sẽ là lớn nhất, quý nhất đối với “người đồng mình”. Họ tự hào và kiêu hãnh khi đã dựng nên quê hương trên núi đá, sinh tồn ngay giữa vùng đất dữ dội và chinh phục thế giới xung quanh bằng chính sức mạnh của văn hóa cộng đồng.
Họ hiểu rõ, nếu không gìn giữ và phát huy sức mạnh ấy, một ngày nào đó, quê hương của họ sẽ sớm tàn lụi, mọi công sức của cha ông đều tiêu tan trước sức mạnh của tự nhiên vĩ đại. Họ cũng hiểu rõ, ở ngoài kia luôn có những điều tốt đẹp hơn nhưng họ mong muốn mọi thế hệ mai sau không vì sự hẹp hòi, ích kỉ của bản thân mà thay đổi mình:
Cách diễn đạt của tác giả kèm với biện pháp nghệ thuật đã góp phần khiến bài văn trở nên sinh động và giàu tính nhạc hơn. Việc điệp cấu trúc đã tạo nên nét riêng cho bài thơ giúp độc giả có những ấn tượng sâu sắc hơn mà ít bài thơ khác có thể đi sâu vào lòng người đến vậy.
Y Phương dùng cả hai biện pháp trên chủ yếu để nhấn mạnh, nhắc nhở, “khắc cốt ghi tâm” người con rằng tuy có vất vả, gian lao thế nào thì cũng không chê bai, trách móc mà hãy hòa mình vào nó. Có gì ăn nấy, sống thanh thản thoải mái, không chạy đua với cuộc sống thành thị, đua đòi. Nhà thơ đã một phần thay lời cha dặn con phải chịu khó, chung thủy với đất rừng, quê hương, tổ tiên mà mỗi ai cũng cần phải giữ lấy nhưng ít ai làm được.
Lời thơ tha thiết, thủ thỉ, tâm tình, dặn dò. Lời cha gửi gắm đến con về bổn phận phải biết tự hào, yêu thương, tôn trọng và gìn giữ truyền thống quê hương cũng là lời nhắc nhở chúng ta phải sống có trách nhiệm với quê hương, đất nước.
Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. Qua vẻ đẹp đời sống và phẩm chất của “người đồng mình” cùng tình cảm thiết tha của nhà thơ Y Phương, đoạn thơ 2 bài thơ “Nói với con” đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một người miền núi. Đồng thời gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, quê hương mà bấy lâu nay ta đã chôn vùi.
SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Và Suy Nghĩ Của Em Về Tình Cảm Cha Con Trong Bài Nói Với Con 💧 Văn Mẫu Đặc Sắc.
Từ xưa đến nay, tình cảm gia đình vẫn luôn là tình cảm thiêng liêng và cao cả biết bao. Nó như dòng sữa ấm áp nuôi nấng ta khôn lớn trưởng thành. Nếu như Chế Lan Viên đã mượn những khúc hát ru thắm đượm tình người để thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng cao quý trong bài thơ “Con cò” thì Y Phương – một nhà thơ dân tộc miền núi, lại tha thiết “Nói với con” về tình cảm cha con thắm thiết, hay rộng hơn cả đó chính là tình cảm đối với quê hương dân tộc, với bản làng. Đặc biệt được thể hiện tiêu biểu qua đoạn thơ thứ hai:
Cảm nhận được tình nghĩa sâu nặng của gia đình và quê hương là chiếc nôi, là cội nguồn sinh trưởng của mỗi con người, người cha “nói với con” về những đức tính cao đẹp của người đồng mình, cha mong con hãy luôn biết tự hào vè bản làng quê hương, về những người dân tộc Tày trọng tình, trọng nghĩa. “Người đồng mình” (người quê mình) giàu tình cảm, nhẫn nhục chịu đựng những khó khăn gian khổ nhưng tâm hồn luôn phóng khoáng ấp ủ ước mơ.
Lời của người cha “nói với con” là lời trao gửi tâm tình bằng tất cả tấm lòng và tình cảm của người cha. Giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, cách gọi thân mật “người đồng mình” thể hiện sự gắn bó thiêng liêng giữa mỗi con người với quê hương. Lời thơ gợi cảm, tự nhiên “thương lắm con ơi”, người cha ca ngợi và mong con biết trân trọng, giữ gìn những đức tính tốt đẹp, những phẩm chất cao quý của dân tộc mình.
Kết cấu câu thơ sóng đôi, cân đối, cách nói giản dị, mộc mạc “cao đo nỗi buồn”, là nỗi buồn của người dân tộc quanh năm giữa mây ngàn đá núi thường xuyên phải rời xa bản làng, bước chân của họ ngày càng trải dài trên đỉnh non cao. Qua đó ta thấy rằng người đồng mình sống vất vả, nghèo đói, cực nhọc, lam lũ. Họ nhẫn nhục chịu đựng nỗi buồn dai dẳng của mảnh đất quê hương.
“Xa nuôi chí lớn”, người cha muốn nói với con dân tộc mình ai cũng có một ý chí, nghị lực ai cũng muốn bay cao bay xa trong tương lai. Lời thơ ngắn gọn, khẳng định niềm tự hào về phẩm chất, truyền thống của dân tộc. Với niềm tự hào về ý chí, nghị lực và truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”, cha mong con luôn sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương:
Điệp từ “sống” và điệp ngữ “không chê” thể hiện sự gắn bó nghĩa tình, chung thuỷ, sẵn sàng chấp nhận sẻ chia. Không gian gợi tả trên đá, trong thung nói lên những khó khăn vất vả của quê hương. Từ láy gợi hình “gập ghềnh” gợi nên cuộc sống bấp bênh không ổn định. Từ đó người cha mong con sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương dẫu quê hương còn nhiều khó khăn vất vả. Đồng thời người cha khuyên con phải có ý chí, nghị lực vươn lên trong cuộc sống:
Hình ảnh so sánh cụ thể “sống như sông như suối”. Người cha khuyên con hãy sống cuộc đời rộng lớn, tự do, khoáng đạt, không thụ động chấp nhận thực tại mà luôn hướng tới tương lai không bao giờ cam chịu cuộc sống nhỏ bé tầm thường. Cách nói ẩn dụ “lên thác xuống ghềnh” kết hợp lời nói mộc mạc thường ngày “không lo cực nhọc”, cha khuyên con hãy sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời, không được chùn bước, nản chí.
Bởi cuộc đời không bao giờ yên ả như một mặt nước hồ thu nên con hãy ngẩng cao đầu dũng cảm vượt qua chông gai, thử thách của cuộc đời. “Người đồng mình không chỉ giàu ý chí nghị lực mà còn giàu về đời sống tinh thần, tâm hồn phóng khoáng để xây dựng nên quê hương với những phẩm chất tốt đẹp:
Âm điệu thơ nhẹ nhàng, tha thiết như một lời tâm tình. Hai câu thơ đối nhau:
Hình ảnh cụ thể “thô sơ da thịt” cho ta thấy sự giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Giọng thơ khẳng định “chẳng mấy ai nhỏ bé” thể hiện niềm tự hào về lẽ sống cao đẹp và tâm hồn phong phú của dân tộc. “Người đồng mình” không ai chịu tự bó mình trong cuộc đời nhỏ nhoi, tầm thường mà ngược lại ai cũng có ước mơ, hoài bão sống cuộc đời rộng lớn, ai cũng có khát vọng vươn lên. Cơ sở của sự khẳng định trên chính là truyền thống tốt đẹp của “người đồng mình”:
Cách nói bằng hình ảnh mộc mạc, cụ thể “tự đục đá” mà ý thơ sâu sắc, người dân tộc bao đời nay chắt chiu, gầy dựng từng mầm sống nhỏ nhoi quê nghèo nhưng tình người lại giàu có vô cùng. “Người đồng mình” cần cù, chịu thương chịu khó luôn sống gắn bó với quê hương, luôn có ý thức đóng góp xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, ngày càng phát triển.
“Còn quê hương thì làm phong tục” đã khẳng định rằng quê hương càng phát triển thì đem đến cho con người sự thay đổi lớn lao về đời sống vật chất và tinh thần. Với lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, người cha còn gửi đến con những lời nhắn nhủ tâm tình:
Nhịp thơ chậm rãi tha thiết, điệp ngữ “thô sơ da thịt” được lặp lại một lần nữa nhưng khẳng định thêm về phẩm chất cao đẹp của “người đồng mình”. Lời thơ chắc gọn như một mệnh lệnh “lên đường” vừa thể hiện mong ước tha thiết của người cha đối với con: khi bắt đầu bước vào hành trình của cuộc đời mình con hãy sống đúng với phẩm chất của “người đồng mình”. Bởi vì “người đồng mình” có thể cực khổ, lam lũ nhưng luôn mạnh mẽ với chí lớn.
Có thể “thô sơ”, mộc mạc với áo chàm nhưng không nhỏ bé về khí phách cho nên con không bao giờ được bằng lòng với cuộc sống bó hẹp, tầm thường phải biết trân trọng giữ gìn và phát huy truyền thống của quê hương, ngẩng cao đầu vượt qua chông gai, thử thách để tự tin khi bước vào đời.
Kết thúc bài thơ chỉ có hai tiếng “nghe con”. Câu thơ chắc gọn như một mệnh lệnh: đừng chối bỏ cội nguồn dân tộc, hãy khắc sâu tình cảm quê hương vào trong trái tim mình, luôn tôn trọng và phát triển truyền thống dân tộc. Đó là tấm lòng của cha dành cho con hay nói đúng hơn là quê hương của mỗi chúng ta.
Tóm lại, âm điệu thơ tha thiết, ngôn ngữ thơ mộc mạc, hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa khái quát, đậm chất trữ tình. Đoạn thơ thể hiện niềm tin tưởng, hy vọng của người cha đối với bước đường tương lai của con. Đồng thời giúp ta cảm nhận được điều tốt đẹp, được tình cảm gắn bó thuỷ chung của dân tộc miền núi. Từ đó gợi trong mỗi chúng ta tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương xứ sở và ý chí vươn lên để tiến bộ, sống làm chủ cuộc đời, làm chủ bản thân.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Nghị Luận Về Bài Thơ Sang Thu 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay
“Nói với con” là bài thơ tiêu biểu nhất của Y Phương. Qua khổ thơ 2, mượn lời nhắc nhở con về cội nguồn sinh thành, người cha khéo léo ca ngợi những vẻ đẹp trong phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, ngợi ca bản sắc văn hóa của quê hương xứ sở. Những phẩm chất ấy không có gì lớn lao nhưng hết sức đáng tự hào và gìn giữ, là hành trang mà con cần phải mang theo khi bước vào cuộc đời lớn.
Phẩm chất cao quý của “người đồng mình” cứ hiện dần qua lời tâm tình của người cha. Đó là một cuộc sống tràn đầy niềm vui và lòng lạc quan:
Cách đảo ngữ đầy thú vị khiến cho ý thơ cao vời, thanh thoát. Người miền núi lấy núi, lấy suối, lấy sông làm đơn vị đo. Tập quán ấy đi vào lời thơ Y phương trở nên hết sức ấn tượng. Người đồng mình cũng lắm suy tư (nỗi buồn). Người đồng mình tuy nghèo khó nhưng lúc nào cũng biết “nuôi chí lớn”. Họ mạnh mẽ, kiêu hãnh sinh tồn giữa đại tự nhiên đầy khắc nghiệt và bí ẩn. Chưa bao giờ họ bị khuất phục. Đó chính là phẩm chất đáng tự hào mà Y Phương muốn nói đến.
Đó còn là tấm lòng thuỷ chung của “người đồng mình” với nơi chôn rau cắt rốn:
Bằng những điệp từ, điệp ngữ, cách so sánh cụ thể, kết hợp với kiểu câu ngắn dài khác nhau, lời tâm tình của người cha đã góp phần khẳng định người miền núi tuy cuộc sống hôm nay còn vất vả, khó nhọc, “lên thác xuống ghềnh” nhưng họ vẫn sống mạnh mẽ, khoáng đạt “như sông như suối”, bền bỉ, gắn bó và tha thiết với quê hương. Từ đó người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thuỷ với quê hương. Biết chấp nhận và vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin của mình.
“Người đồng mình” mộc mạc, dung di, giàu ý chí và niềm tin. Họ tuy “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn và ý chí. Họ biết lo toan và mong ước. Họ biết tự lực, tự cường xây dựng quê hương, duy trì truyền thống với những tập quán tốt đẹp của “người đồng mình”:
Câu thơ có 2 lớp nghĩa. Về nghĩa tả thực: Đục đá kê cao quê hương là hành động có thật thường thấy ở miền núi. “Quê hương” vốn là khái niệm trừu tượng, chỉ nơi chốn sinh thành của một người nào đó. Họ thường xây dựng nhà cửa trên những miền đất cao đầy sỏi đá để có cơ ngơi vững chắc, chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt. Từ ngàn năm xưa họ sống với đá, sống trên đá. Đá núi trở thành một phần quen thuộc trong cuộc sống của họ, biểu trưng cho ý chí kiên cường, rắn rỏi, không bao giờ bị khuất phục.
Nghĩa ẩn dụ: Nói đục đá kê cao quê hương. Hình ảnh thơ khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn. Tình yêu và niềm tự hào của con và tất cả “người đồng mình” cũng vững bền như đá núi vậy. Đó là một niềm tin vĩnh cửu, không gì thay đổi được. người cha muốn ca nằm lòng điều đó dẫu cuộc sống sau này có thay đổi như thế nào.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò và hi vọng của người cha mong muốn con mình phải tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương mình. Hãy lấy những tình cảm đó làm hành trang để vững bước trên đường đời rộng lớn”
Hình ảnh người đồng mình “thô sơ da thịt” lặp lại hai lần như muốn con ghi nhớ sâu sắc về hình ảnh con người và quê hương mình. “Người đồng mình” tuy mộc mạc, chân chất nhưng có lẽ sống cao đẹp. Trên đường đời con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng với “người đồng mình” đã từng sống, từng yêu như thế.
Con là đại diện của người đồng mình, con mang theo những phẩm chất của người đồng mình thế nên “bao giờ nhỏ bé được”, dù con đường phía trước còn đầy chông gai. Con hãy tự tin bước đi, bởi sau lưng con có gia đình, có quê hương, bởi trong tim con sẵn ẩn chứa những phẩm tốt đẹp và quý báu của “người đồng mình” rồi.
Hai tiếng “nghe con” chứa đựng tấm lòng yêu thương và niềm tin sâu nặng cha đặt nơi con. Hai tiếng ấy khép lại bài thơ để lại một dư âm nhẹ nhàng mà âm vang xao xuyến.
Với thể thơ tự do, mạch cảm xúc tự nhiên, cách nói giàu hình ảnh vừa mộc mạc mà vẫn giàu chất thơ, cụ thể mà giàu sức khái quát, bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ, những phẩm chất cao quý của “người đồng mình”, của quê hương nguồn cội. Khổ thơ 2 của bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh ☔ 15 Bài Hay
Bài thơ Nói với con ra đời cuối những năm bảy mươi của thế kỉ XX, khi cả đất nước đứng trước hiện thực khó khăn sau chiến tranh. Với hai mươi tám câu thơ tự do, bài thơ có thể chia làm hai phần. Mười một câu thơ đầu là tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, tươi vui. Mười bảy câu còn lại là truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người đồng mình và mong muốn của người cha.
Gia đình, quê hương là cái nôi đầu đời của mỗi con người. Tình cảm gia đình, quê hương là sợi dây vô hình níu giữ bước chân của những con người xa quê với cội nguồn. Với giọng điệu tâm tình nhỏ nhẹ, Y Phương cho ta cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình bình dị mà ai trong chúng ta cũng từng được trải qua:
Đó là những bước đi chập chững đầu tiên, gia đình tràn ngập trong “tiếng nói, tiếng cười” yên vui. Khi con lớn lên, cha mẹ vẫn luôn theo dõi bước chân của con trên mọi nẻo đường đời. Cha mẹ là điểm tựa vững chắc nâng đỡ từng bước con đi, không gì hạnh phúc bằng con có cha mẹ.
Bảy câu thơ tiếp: Con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. “Người đồng mình” là người vùng mình, người quê hương. Đây là cách nói giản dị, thân thuộc, mộc mạc của người miền núi.
“Đan lờ” để bắt cá, “ken” vách nhà làm chỗ che nắng, che mưa, những công việc lao động hàng ngày qua cách liên tưởng của tác giả trở nên thi vị, lãng mạn, đầy chất thơ. Động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả những động tác, cử chỉ cụ thể, vừa nối liền cuộc sống vật chất và tinh thần. Lao động, xây dựng cuộc sống no ấm, từ đó mà nảy sinh thơ ca, nhạc họa, nảy sinh đời sống tinh thần phong phú (hoa, câu hát).
Hoa biểu tượng cho cái đẹp. “Rừng cho hoa” để tâm hồn người đồng mình thêm phong phú, biết yêu thương, trân trọng những giá trị tinh thần. “Con đường cho những tấm lòng” thơm thảo, biết sẻ chia, biết đồng cảm nỗi buồn vui. Thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình đã nuôi dưỡng, chở che con người, nếu con người biết gắn bó với quê hương, quê hương sẽ cho tất cả những gì tốt đẹp nhất cả giá trị vật chất lẫn tinh thần. “Người không phụ đất thì đất chẳng phụ người”.
Ở khổ thơ thứ nhất Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân tộc, thiên về cách nói cụ thể, vừa sinh động, khái quát mà vẫn không kém phần thi vị về vẻ đẹp cuộc sống lao động của người miền núi.
17 câu còn lại trong khổ thơ thứ 2 đã khắc hoạ những đức tính cao đẹp của người đồng mình và mong muốn của người cha qua lời tâm sự với con. Mỗi lần người cha tâm sự với con về “người đồng mình” thì một lần phẩm chất cao đẹp của người đồng mình lại hiện ra.
Người đồng mình … cực nhọc
“Người đồng mình” cuộc sống vất vả “lên thác xuống ghềnh” nhưng giàu chí khí, biết lấy “nỗi buồn” mà “nuôi chí lớn”, lấy cái cao xa của đất trời làm thước đo “nỗi buồn” và “chí lớn” ấy. Người cha muốn con ghi nhớ lấy những truyền thống ấy để mà thương mà nhớ:
“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn…nghèo đói”.
Quê hương là nơi chôn nhau cắt rốn, là mảnh đất thiêng liêng, càng nghèo khó, càng phải gắn bó sẻ chia. Bởi vậy, mà quê hương đi vào văn học với một niềm thương nỗi nhớ của bao thế hệ. Họ tự hào hát về quê hương. Người dân xứ Nghệ hát về quê mình:
Người Quảng Bình tự hào:
Quê hương dù nghèo đói, khổ đau… nhưng bát cơm, dòng nước quê hương vẫn chảy trong ta, nơi đó ấp iu bao nghĩa tình. Nhạc sĩ khẳng định:
Bởi như nhà thơ Đỗ Trung Quân từng nói:
“Người đồng mình thô sơ da thịt” nhưng không nhỏ bé về tâm hồn. Như đã nói ở trên, họ giàu chí khí, tâm hồn phong phú, biết đồng cảm, sẻ chia.
Người đồng mình… phong tục.
“Đục đá”, một cách nói cụ thể diễn đạt công việc lao động vất vả theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Dẫu phải “đục đá”, họ vẫn muốn lao động xây dựng quê hương giàu đẹp, “kê cao quê hương”. Một tình yêu chân chính, sâu sắc phải được biểu hiện bằng hành động cụ thể.
Yêu quê hương mà quê hương vẫn còn nghèo khó thì phải lao động để xây dựng quê hương. Còn “quê hương thì làm phong tục”, “phong tục” là lối sống, nếp sống sinh hoạt đẹp đẽ của quê hương. Lối sống đó sẽ theo con đi bốn phương trời, nhớ về quê hương là nhớ những phong tục đẹp đẽ ấy.
Từ những truyền thống đẹp đẽ của quê hương, từ những phẩm chất của người đồng mình, người cha mong muốn:
Lần thứ nhất người cha nói đến “Người đồng mình thô sơ da thịt” để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là “người đồng mình”.
“Lên đường” đi xa con phải biết tự hào về quê hương và tự tin để bước vào đời. Truyền thống của quê hương, niềm tự hào về quê hương trở thành hành trang con mang theo trên mọi nẻo đường. Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.
Trách nhiệm của người con là phải biết tự hào, phát huy những đức tính tốt đẹp của người đồng mình, đồng thời gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của quê hương, cố gắng học tập thật tốt để góp phần xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp.
Tiếp theo đón đọc 💕 Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương 💕 18 Bài Đặc Sắc Nhất
Không mềm mại và dịu dàng như tình mẫu tử, tình cảm của người cha dành cho con cái luôn có sự vững chãi, bền bỉ và trường tồn. Với nhà thơ Y Phương, tình phụ tử thiêng liêng ấy nhiều hơn một lời “cha yêu con”, cao hơn cả núi Thái Sơn ngàn năm lừng lững, đó là ước mơ mong con lớn lên mạnh mẽ, vững bước trên đường đời gian nan.
Qua bài thơ Nói với con, tác giả đã gửi gắm những xúc cảm vừa nguyên sơ, bình dị lại vừa chan chứa, sâu nặng của người cha với đứa con thơ bé, đồng thời thể hiện sự mong mỏi và kì vọng của đấng sinh thành đối với mầm non tương lai của đất nước.
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do giống như lời thủ thỉ, tâm tình. Xuất thân là người dân tộc Tày, câu thơ của Y Phương không chau chuốt, hoa mĩ mà vô cùng chân chất, mộc mạc nhưng không kém phần sâu lắng, cảm động. Từ tình cảm cha con thuần túy, tác giả mở rộng tới tình cảm gia đình và tình yêu dân tộc, yêu tổ quốc.
Bởi lẽ, có yêu gia đình, yêu cha mẹ thì mới có nền tảng cho những tình cảm mang tính thời đại, và vì yêu tổ quốc, yêu đồng bào nên người con hãy nhớ lấy công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, đồng thời bộc lộ sự tự hào với dòng máu dân tộc quật cường, bất khuất trung kiên.
Mở đầu bài thơ bằng những vần điệu ngây ngô:
Người con may mắn được sinh ra trong một gia đình đầy đủ, có cha, có mẹ, có tiếng nói, tiếng cười hạnh phúc của tuổi thơ. Từng bước đi chập chững đầu đời của con đều được dìu dắt bởi cha mẹ “chân phải bước tới cha”, “chân trái bước tới mẹ”, cha mẹ là người nâng bước con đi trên đường đời.
Ở cạnh con những ngày con thơ bé, mang đến cho con niềm vui tuổi thơ trọn vẹn, tình máu mủ ruột thịt vĩ đại và đặc biệt là công ơn sinh thành của cha mẹ dành cho con. Với nền tảng vững chắc và hạnh phúc như vậy, người cha thủ thỉ với con về cuộc sống thường nhật, về con người quê hương xứ sở:
Ở đây, người đọc tưởng tượng giọng thơ giống như lời kể chuyện cổ tích của người cha cho con trước giờ đi ngủ, trầm ấm và say mê. Những hình ảnh đặc trưng của người dân tộc Tày sinh sống tại miền núi như “lờ”, “nan hoa”, “vách nhà” được Y Phương lồng ghép duyên dáng và khéo léo. Một bức tranh đa sắc màu kể về cuộc sống lao động tươi đẹp của những người dân thật thà, chất phác.
Người đồng mình hăng say lao động, lờ – một dụng cụ để bắt cá được đan tết chắc chắn, tinh xảo “cài nan hoa”, nhà tranh vách đất đơn sơ, mộc mạc được lấp đầy bằng những câu hát phóng khoáng của người dân miền núi. Đồng bào dân tộc yêu lao động, làm việc nhưng không quên điểm xuyết cho cuộc sống những sắc màu nghệ thuật tài hoa.
Tác giả thể hiện sự yêu quý đối với đồng bào bằng câu nói tình cảm “người đồng mình thương lắm con ơi”, “con đường cho những tấm lòng”,tiếng lòng dành cho những người anh em ruột rà, yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Những tấm lòng thơm thảo như hoa, đùm bọc, che chở lẫn nhau của những người cùng chung dòng máu đỏ da vàng.
Trên cái nền cuộc sống chan chứa tiếng cười và niềm vui ấy chính là nơi cha mẹ đã nên duyên vợ chồng, “ngày đẹp nhất trên đời” khi được cùng nhau về chung một mái nhà, cùng làm việc, cùng sinh ra con và dạy dỗ con nên người.
Trong những lời đầu tiên cha dạy con không chỉ nhắc con ghi nhớ về núi rừng nguồn cội mà còn có tình yêu thương với con người. Nhắc đến người đồng mình, người cha mang một niềm tự hào vì những đức tính tốt đẹp, quý báu truyền thống của dân tộc:
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc chiến tranh giữ gìn độc lập và chủ quyền dân tộc, có lẽ vì vậy, người dân đều lớn lên với ý chí quật cường, đứng lên từ thất bại, từ máu lửa đạn bom. “Cao đo nỗi buồn”, “xa nuôi chí lớn” chính là để nhắc về những nỗi đau, nỗi mất mát gia đình, người thân, từ đó trở thành động lực phấn đấu không ngừng, rèn luyện ý chí kiên cường, vững chắc.
Tuy chỉ là một đất nước nhỏ bé, con người nhỏ bé về tâm vóc, không được trang bị đầy đủ, rèn luyện trong môi trường chuyên nghiệp như các cường quốc, nhưng trí lực thì không hề nhỏ bé. Những dẫn chứng lịch sử oai hùng từ thời vua Hùng, vua Lê cho đến chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ngày giải phóng Đất nước, Bắc Nam về cùng một mối năm 1975 gây rúng động toàn nhân loại, chẳng có ai dám nói người Việt Nam nhỏ bé và yếu đuối.
Vượt lên những khó khăn cả về điều kiện tự nhiên, “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”, cải tạo đất đai, cải tạo thiên nhiên để làm giàu cho đất nước. Sau bao nhiêu năm bị đô hộ và trải qua thời kì hội nhập, dân tộc Việt Nam vẫn trường tồn, giữ lại những nét đẹp phong tục truyền thống, đồng thời phát triển cả về kinh tế và văn hóa.
Đoạn thơ giàu cảm xúc với âm hưởng bi tráng, khẳng định tinh thần nghĩa khí bất khuất của dân tộc ta, dẫu có đạn bom loạn lạc, dẫu có phải trải qua âm mưu đồng hóa và đô hộ của giặc ngoại xâm vẫn không nao núng, giữ vững tinh thần dân tộc và từng bước phát triển đất nước.
Nối tiếp truyền thống dân tộc, người cha mong con mình lớn lên, nhìn vào những tấm gương các thế hệ đàn anh đi trước để luyện rèn bản thân:
Người cha muốn con hãy lớn lên quật cường, nối tiếp truyền thống quý giá được xây dựng ngàn năm của nhân dân, sống ngay thẳng, có ý chí vươn lên và luôn biết trân trọng những gì mình đang có. “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh”, “Sống trong thung không chê thung nghèo đói”, đất nước Việt Nam tự do độc lập là thành quả của biết bao mồ hôi nước mắt cha ông đã hi sinh, vì vậy, nhiệm vụ của con là dựng xây, kiến thiết đất nước, đưa Tổ quốc sánh vai với các nước bạn trong khu vực và trên toàn thế giới.
Sống trong sạch “như sông như suối”, không quản ngại “lên thác xuống ghềnh”, “không lo cực nhọc”, tích lũy hành trang vững chắc để bước vào đời. Ở đây, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảm của người cha dành cho đứa con bé nhỏ, không phải những lời an ủi ngợi ca êm ái, lời dặn của cha mang tầm vóc lớn lao với cái nhìn xa rộng, mong muốn con nên người và hoàn thiện bản thân. Và cuối cùng, những lời căn dặn của người cha càng trở nên ý nghĩa, sâu sắc:
Người đọc có chút băn khoăn rằng không biết người cha đang thủ thỉ tâm sự với đứa con nhỏ của mình, hay người con đã lớn và chuẩn bị đi xa, người cha muốn gửi gắm những lời căn dặn về lẽ sống với con. Lời nói có âm sắc vừa quyến luyến, vừa rắn rỏi, vừa dặn dò con cũng là vừa răn dạy. “Không bao giờ nhỏ bé”, cha mong con không bao giờ từ bỏ giấc mơ, không nản chí khi gặp khó khăn và không sa ngã vào con đường lầm lối.
Quả thực, người cha đặt vào con rất nhiều niềm tin và mong con thành công vang dội. Điều vĩ đại nhất người cha muốn con thực hiện chính là sống sao cho thanh khiết, liêm chính, sống cho xứng đáng với sự hi sinh của cha ông, sống đúng với đạo làm người của dân tộc.
Thể thơ tự do bay bổng và linh động, lời thơ chứa chan cảm xúc yêu thương và tự hào, đây giống như lời của chính nhà thơ muốn gửi tới con mình, mong con có một cuộc sống tốt đẹp và xứng đáng với những gì cha mẹ đã cho. Câu từ gần gũi, những hình ảnh miêu tả đặc trưng nếp sống sinh hoạt của người miền núi phía Bắc cũng thể hiện tinh thần tự hào của tác giả đối với đồng bào mình. Người cha gửi tới con những lời dạy vừa nhẹ nhàng, tha thiết mà vừa mang sức nặng tầm vóc lớn lao của cả một dân tộc.
Tình cha con thắm đượm xúc cảm được thể hiện qua cách dặn dò, dạy bảo của người cha với con, Y Phương rất xuất sắc trong việc khắc họa chân dung người nông dân Việt Nam với những đức tính tốt đẹp, ý chí cao cả, kiên trung, qua đó truyền tải tới người đọc những chiêm nghiệm về cuộc sống, con người cũng như mong muốn thế hệ trẻ lớn lên tiếp thu được những tinh hoa dân tộc, lấy đó làm cơ sở phát triển và đưa đất nước lên một tầm cao, một vị trí mới.
SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌼 5 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 2 Câu Đầu Bài Nhàn ❤️️ 10 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 2 Câu Đầu Bài Nhàn ❤️️ 10 Bài Văn Hay Nhất ✅ chúng tôi Tuyển Tập Bài Viết Cảm Thụ 2 Câu Đề Trong Bài Thơ Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
I. Mở bài phân tích 2 câu đầu bài Nhàn:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đa tài, sống trong xã hội đầy bất công ông suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống con người, quyết cầm bút lên để chiến đấu với gian tà.
“Nhàn” là bài thơ Nôm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, 2 câu thơ đề thể hiện rõ quan niệm sống của tác giả.
II. Thân bài phân tích 2 câu đầu bài Nhàn:
a. Phân tích hai câu đề thể hiện hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Nhịp thơ 2-2-3 thong thả đều đặn. Nhịp điệu những câu thơ đầu tạo cảm giác thư thái, ung dung
Mai, quốc, cần câu: Là những dụng cụ lao động cần thiết, quen thuộc của người nông dân.
Phép liệt kê kết hợp với số từ “một”: Gợi hình ảnh người nông dân đang điểm lại công cụ làm việc của mình và mọi thứ đã sẵn sàng.
Bằng cách sử dụng những vật dụng quen thuộc của người dân lao động cho thấy cảnh nghèo khó nhưng an nhàn, thanh bình biết bao.
Trạng thái “thơ thẩn”: chăm chú vào công việc, tỉ mẩn. Tâm trạng hài lòng, vui vẻ cùng trạng thái ung dung, tự tại của nhà thơ.
Cụm từ phủ định “dầu ai vui thú nào”: Phủ nhận những thú vui mà người đời thường hay theo đuổi.
Hai câu thơ khái quát hoàn cảnh sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê nhà vất vả, lam lũ, mệt nhọc nhưng tâm hồn lúc nào cũng thư thái, thanh thản.
Cuộc sống ở quê nhà của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó với công việc nặng nhọc, vất vả, lam lũ của một lão canh điền. Nhưng tác giả rất yêu và tự hào về thú vui điền viên ấy
Tâm trạng của nhà thơ là tâm trạng của một kẻ sĩ “an bần lạc đạo” vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường để tìm đến thú vui của ẩn sĩ.
Tâm thế ung dung, tự tại, triết lí sống nhàn của ẩn sĩ “nhàn tâm”.
b. Đặc sắc nghệ thuật:
Ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu, dễ cảm
Cách kể, tả tự nhiên, gần gũi
Các biện pháp tu từ: Liệt kê, đối lập
Nhịp thơ chậm, nhẹ nhàng, hóm hỉnh
III. Kết bài phân tích 2 câu đầu bài Nhàn:
Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ
Thể hiện những cảm nhận của mình về bài thơ: Là bài thơ hay, giàu ý nghĩa.
Gửi đến bạn 🍃 Dàn Ý Bài Nhàn 🍃 Mẫu Nghị Luận Bài Nhàn Đầy Đủ
“Thơ khởi phát từ lòng người ta”, chứa đựng biết bao nhiêu rung cảm, trăn trở nơi người cầm bút. Một tác phẩm thơ chân chính, muốn vượt lên sức mạnh của thời gian, của lòng người, ẩn chứa trong đó những tình cảm thật, suy nghĩ thật và phải được viết lên từ mồ hôi và nước mắt của nhà thơ. Với “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gửi tới người đọc những quan niệm, triết lí sâu sắc về con người, thời đại mà cho đến tận ngày nay người ta vẫn phải suy ngẫm.
Cũng giống như Nguyễn Trãi, sống giữa một thời đại loạn lạc, đầy biến động, nơi mà các giá trị truyền thống đạo đức bị đảo lộn, con người trở nên vị kỉ hơn, vụ lợi hơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tìm về với cuộc sống nơi thôn dã, vui với việc “cày nhàn câu vắng”, tự mình thích thảng với lòng mình, tạm quên hết sự đời “dầu ai vui thú nào”. Gửi chí hướng về nơi thôn dã, cuộc sống của thi nhân nơi thôn quê hiện lên như một “lão nông chi điền” trong 2 câu thơ đầu:
Bài thơ mở đầu bằng phép liệt kê kết hợp với điệp từ “một” đã gợi mở ra một cuộc sống đơn sơ, chất phác với những công cụ lao động quen thuộc của người dân quê. Một cuộc sống thuần phác, giản dị với “mai”, “cuốc” và “cần câu” nhưng an nhàn và thanh tao. Đặc biệt, hai chữ “thơ thẩn” kết hợp với nhịp thơ 2/2/3 một cách tài tình, đã gợi ra chân dung của Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa chốn thôn quê dân dã.
Đó là dáng điệu ung dung, thu thái của một nhà thơ, cũng là nhịp điệu cuộc sống thường nhật của nhân vật trữ tình. Thanh thản, tự tại là tâm thế con người đã xác định được lẽ sống của mình, rời xa cõi trần tục, lòng không vướng bận xung quanh. Câu thơ cũng là lời bày tỏ thái độ cự tuyệt đời sống thị thành, chối bỏ mọi sự nhập cuộc, tự tách mình khỏi thế nhân trụy lạc để giữ khí tiết thanh tao.
Đặt trong tương quan với nhiều tác phẩm thơ văn khác, các sáng tác của ông hàm chứa tính phức hợp của cung bậc tâm trạng. Thi nhân đã đưa ra nhiều cách thức hình dung về cuộc đời, soi nhìn cuộc sống từ nhiều góc cạnh, tự đặt mình trong mỗi tình huống cụ thể mà bài thơ “Nhàn” chỉ là một chiêm nghiệm riêng. Điều này đặt ra yêu cầu tiếp nhận thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm cần được xem xét trong tính tổng thể song cũng phải chú tới mối liên hệ giữa các đường hướng tâm trạng phù hợp với từng cảnh đời và chặng đường đời cụ thể.
Như vậy, qua bài thơ Nhàn, đặc biệt là 2 câu thơ đầu, người đọc vẫn còn vương vấn cuộc sống an nhàn, thanh tao, giản dị mà Nguyễn Bỉnh Khiêm coi đó là cách sống, là triết lí sống sâu sắc: vinh hoa phú quý chỉ là phù du, như một giấc mộng, rời xa chốn hư danh phàm tục đó để giữ khí tiết thanh sạch mới là bậc đại trí. Điều đó đã làm nên sức sống trường tồn bất diệt của tác phẩm trước sức mạnh của dòng thời gian và đời người.
Gợi ý cho bạn ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Bài Nhàn Nguyễn Bỉnh Khiêm ☀️ 10 Mẫu Hay
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một người có học vấn uyên bác, từng đỗ Trạng Nguyên năm 1535 và ra làm quan dưới triều nhà Mạc. Nhưng do sống và phụng sự trong một thời kỳ lịch sử đầy sóng gió và đảo điên của chế độ phong kiến Việt Nam Trịnh – Nguyễn phân tranh nên Ông đã cáo quan về quê ở ẩn và tận hưởng cuộc sống thanh nhàn cho đến cuối đời.
Tập thơ Bạch vân quốc ngữ thi tập mà trong đó có bài thơ Nhàn của tác giả cũng ra đời vào hoàn cảnh đó. Bài thơ Nhàn là một tác phẩm nổi tiếng thể hiện quan niệm sống thanh tao của một bậc đại Nho xem thường danh lợi, phú quý, xem chúng là một giấc mộng xa hoa, phù phiếm , không xứng đáng để một con người trong sáng theo đuổi.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã giới thiệu cho người đọc về hoàn cảnh sống thư thái và êm ả nơi làng quê Đồng bằng Bắc Bộ thật yên bình với những hoạt động quen thuộc:
Câu thơ hiện lên với những hình ảnh về các vật dụng vô cùng quen thuộc của người nông dân nơi làng quê: cái mai, cái cuốc để đào đất trồng cây, cần câu đê câu cá- một thú vui cực kì tao nhã của con người lúc rảnh rỗi. Nhà thơ thật tinh tế khi sử dụng số từ “ một” kết hợp với tên các dụng lao động quen thuộc để diễn tả một tư thế sẵn sàng lao động và sự gắn bó gần gũi của những vật dụng ấy với đời sống của người nông dân thiện lành. Phong thái ung dung của nhà thơ còn được thể hiện thật rõ nét qua cách ngắt nhịp 2/2/3 của câu thơ.
Chỉ bằng vài nét chấm phá mở đầu của bài thơ, đã mở ra một không gian nơi chốn thôn quê thật thanh bình với những vật dụng lao động gắn liền với công việc nặng nhọc, vất vả và lam lũ của một lão canh điền Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan Trạng Nguyên đan áo mũ xênh xang, chức lớn, bổng lộc nhiều, ấy vậy mà bỗng dưng rũ bỏ tất cả để trở về với đời sống “tự cung tự cấp” thì âu cũng đã là một cái “ngông” trước thói đời hám danh, hám lợi.
Nhưng cho dù đối diện với một nhịp sống mới mẻ, thi nhân vẫn rất vui vẻ và tự hào về những thú vui giản đơn mà đầy tao nhã ấy. Câu thơ thứ hai với từ “ thơ thẩn” được đặt ở đầu câu thể hiện phong cách ung dung và tâm trạng thảnh thơi của con người khi tâm tĩnh tại không vướng bận chuyện trần thế.
Hơn thế nữa cụm từ “dầu ai vui thú nào” cũng thể hiện tâm thế vô cùng ngạo nghễ và quyết đoán khi lựa chọn cho mình một con đường riêng. Một chốn ở thật yên bình, thanh tịnh: là một nơi không có tham lam sân si, cũng có những toan tính lợi danh, khiến Ông cảm thấy thật đúng đắn và thoải mái.
Hai câu đề đã vẽ nên một không gian sống nơi làng quê Đồng Bằng Bắc Bộ thật yên bình, dân dã của bậc ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nơi đây, không còn quyền uy của một bậc quan Trạng, cũng không còn sự khúm núm, e sợ của một kẻ thuộc hạ. Tất cả đã được cởi bỏ hoàn toàn, cả những ham muốn về danh vọng và tiền tài để chỉ còn đây là một lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm, với nhịp sống và lao động thường nhật như những người nông dân hiền lành, chất phác nhưng vô cùng lạc quan, vui tươi nơi làng quê.
Qua 2 câu thơ đầu trong bài Nhàn đã toát lên vẻ đẹp nhân cách đạo đức của một bậc Nho sĩ đại tài Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ông đã cởi mũ quan để về chốn thanh tịnh sống phần đời của chính mình, để giữ lại một nhân cách đáng trân quý. Quan điểm coi khinh danh lợi, xem đó là phù phiếm, hão huyền. Đồng thời, thông qua tác phẩm, chúng ta cũng thấy rõ về một tâm hồn yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên, một cốt cách cao đẹp xứng đáng làm một tấm gương sáng cho bao thế hệ mai sau.
Đọc nhiều hơn ☀️ Mở Bài Phân Tích Nhàn ☀️ 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Trong rất nhiều đóng góp của cho nền văn hóa dân tộc, đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giáo dục được nhiều nhà khoa học đánh giá cao, tất cả thành tựu giáo dục ở thời Mạc, không thể không nhắc tới công lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông chính là những tượng đàio thơ ca tiêu biểu của Việt Nam. Trong những tác phẩm nổi tiếng của ông có bài thơ “Nhàn” như một lời phê phán, một lời oán trách nhẹ nhàng trước cuộc sống đầy bon chen, ích kỉ. Đồng thời, nêu cao tinh thần lạc quan, khí tiết thanh cao của một người coi danh lợi.
Tác phẩm được sáng tác trong hoàn cảnh ông chán ghét cảnh quan trường và trở về ở ẩn tại làng quê. Đây cũng chính là cách xử thế quen thuộc của ông cũng như các nhà nho cùng thời trước bất bình của hiện thực chốn qaun trường bị đồng tiền làm mờ mắt và thể hiện khí thế thanh cao trong sạch muốn tìm thú vui nơi thuên nhiên, cây cỏ. Nhà thơ sáng tác bài thơ này để thể hiện quan điểm của mình, hai câu thơ đàu tiên hiện lên với bao điều thú vị nơi thôn quê bình dị:
Nhịp thơ 2/2/3 thể hiện được lối sống thanh nhàn.“ Mai, cuốc” đều là những dụng cụ củ nông dân dùng để đào xới đất. Tác giả đã sử dụng biện phát liệt kê để chỉ hàng loạt các dụng cụ bình dị, tái hiện lên hình ảnh của một người nông dân thực thụ với những thú vui hòa mình cũng với thiên nhiên, câu cỏ. Câu cá một hoạt động thanh nhàn của mọi nho sĩ khi về quê ở ẩn. Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự.
Điệp từ”một” cho thấy mọi thế đã đầy đủ sẵn sàng và chu đáo tác giả chọn cách sống hoàn toàn đối lập với những kẻ tham danh vọng, sống một lối sống xô bồ nơi quan trường. Từ láy “ thơ thẩn” hiện lên với một sự thư thái nghỉ ngơi mông lung, không còn vướng bận đến việc triều chính mà tự do tự tại nơi chốn thiên nhiên giản dị. “Ai” ở để ám chỉ người đời, những kẻ sống bon chen, tìm kiến tham vọng. Những kẻ này sẽ mãi chẳng thể kiếm được niềm vui sự thảnh thơi của chính bản thân mình.
Bài thơ đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả rời xa phú quý để giữ cốt cách thanh cao, không màng phú quý để được sống hòa hợp với thiên nhiên, cây một lối sống không vướng bận, không bon chen. Nghệ thuật thơ đối lập, nói ngược đã góp phần làm nên thành công trong tác phẩm.
Có thể nói, bài thơ “Nhàn” đã thể hiện được quan niệm cũng nhơ cách sống của tác giả. Cho thấy một vẻ đẹp cuộc sống đạm bạc mà bình dị mag thanh cao. Nét đẹp tâm hồn con người mới đáng quý.
Đừng bỏ qua 🔥 Kết Bài Phân Tích Nhàn 🔥 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. Những sáng tác của ông luôn thể hiện rõ nét những triết lí và bài học giáo huấn sâu sắc. Bài thơ “Nhàn” là một trong số những sáng tác xuất sắc và tiêu biểu nhất của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đặc biệt, đọc bài thơ, người đọc thấy hiện lên rõ nét hình tượng người ở ẩn với nhiều phẩm chất, vẻ đẹp đáng trân quý.
Trước hết, hình tượng người ở ẩn trong bài thơ “Nhàn” hiện lên là một người có cuộc sống ung dung, tự tại và giản dị.
Trong hai câu thơ mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khéo léo sử dụng thành công biện pháp điệp ngữ “một” được lặp đi lặp lại nhiều lần kết hợp với phép liệt kê “mai”, “cuốc”, “cần câu” – những vật dụng quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống của người lao động.
Từ đó, tác giả đã gợi lên hình ảnh một người nông dân với tư thế an nhàn. Thêm vào đó, với việc sử dụng từ láy “thơ thẩn’ giàu sức gợi đã lột tả tâm thế thảnh thơi, ung dung, không vướng ưu tư, muộn phiền. Như vậy, với hai câu thơ đầu, tác giả đã khéo léo thể hiện hình ảnh người ở ẩn đang sống cuộc sống như một người nông dân, ung dung, tự tại và giản dị.
Thêm vào đó, hình tượng người ở ẩn trong bài thơ còn hiện lên là một người sống trong sạch, tránh xa vòng danh lợi để giữ tâm hồn, nhân cách thanh sạch của mình.
Qua hai câu đầu bài thơ Nhàn, người đọc thấy ánh lên một quan niệm, một triết lí nhàn với ý nghĩa độc đáo, sâu xa. Mỗi người nên tránh xa chốn vinh hoa, phù phiếm xem chúng chỉ như những giấc chiêm bao để giữ cho tâm hồn mình được thanh sạch. Đồng thời, cần sống ung dung, giản dị và hòa hợp với thiên nhiên, vạn vật.
Với ngôn ngữ tự nhiên mà giàu chất triết lí cùng những điển cố, điển tích, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xây dựng thành công hình tượng người ở ẩn với nhiều vẻ đẹp, phẩm chất đáng trân trọng.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về quê. Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử. Ông là người có học vấn uyên thâm ,là nhà thơ lớn của dân tộc.
Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” là bài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làng quê.
Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào một cuộc sống nhàn rỗi:
Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh một ông lão nông dân sống thảnh thơi .Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “một” thêm vào là một số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc một cuộc sống rất tao nhã và gần gũi nhưng không phải ai muốn là có.
Từ “thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của một người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ “vui thú nào” cũng một lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trạng thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.
Như vậy qua bài thơ và 2 câu thơ đầu ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi, luôn giữ được tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, đề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điển tích và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm một cách linh hoạt .
Bài “Nhàn” là một bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.
Giới thiệu tuyển tập 🌟 Nghị Luận Bài Nhàn 🌟 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Văn học có sứ mệnh nâng đỡ tâm hồn con người, khéo con người thoát khỏi vũng bùn lầy của sa ngã và cám dỗ. Vậy nên, dù một bài thơ, bài văn hay đến mấy, xúc cảm dạt dào đến mấy, nó nhất thiết chỉ có giá trị khi nó mang chứa một tư tưởng lớn, một triết lý sống thanh cao để hướng người đọc đến thế giới của chân thiện mỹ.
Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những triết lý sâu sắc đã gửi gắm những chiêm nghiệm cả một đời thơ của thi nhân, từ đó nâng đỡ tâm hồn người đọc và hướng xúc cảm của người thưởng thức đến thế giới của cái đẹp.
Các từ một lặp lại 3 lần, cho thấy phần nào sự chuẩn bị đã sẵn sàng và độc thời khiến nhịp thơ càng thêm chậm, và mang đến cảm giác thư thái cho người đọc. Những hình ảnh một mai, một cuốc, một cần câu ấy đã khiến hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện trong câu thơ trên giống như một lão nông tri điền và một bậc tao nhân mặc khách, ông cáo quan về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường bụi bặm về ẩn nơi thôn dã vui với thú điền viên, hòa mình với thiên nhiên cảnh vật.
Đặc biệt, cách dùng từ rất giàu sức gợi của tác giả cũng phần nào giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn tâm hồn, tư thế và tâm thế của tác giả. Từ “thơ thẩn” dã toát lên phần nào tư thế và tâm thế của nhân vật trữ tình, thoải mái, ung dung tự tại mà cũng đầy kiêu ngạo như một lời thách thức với đời rằng mặc ai vui thú nào, ta đây vẫn say sưa với thú điền viên, với thú an nhàn, qua đó phần nào giúp ta thấy được sự gắn bó của nhà thơ với nông thôn, với cuộc sống dân dã, bình dị đời thường.
Đó quả thực là một thái độ sống rất đáng trân trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi ông sống trong chế độ phong kiến khủng hoảng, nền tảng đạo đức bắt đầu rạn nứt, thời đại con người lấy tiền ra để đo mọi thứ và những giá trị nhất thời được tôn sùng thì ở đó ta vẫn bắt gặp một bậc triết nhân với tâm hồn thanh cao, chính trực, không màng danh lợi.
Bằng những vần thơ gần gũi mà không phô trương nhưng đằm sâu triết lý, bài thơ Nhàn giống như một thứ khí giới thanh cao đắc lực để giúp chúng ta – những người luôn bị vướng vào những cái “chùng chình hay vòng vèo” của cuộc sống được hiểu sâu hơn về lẽ đời, về những cám dỗ mà bản thân thường mắc phải.
Vì thế nên bài thơ giống như một tấm gương để người đọc thế hệ sau răn mình, sửa mình, không bị sa xuống vũng bùn lầy của những cám dỗ ấy mà sống người hơn, hướng thiện hơn để hướng tới hai chữ CON NGƯỜI viết hoa. Có lẽ vì thế chăng mà giữa dòng thời gian chảy trôi vô thủy vô chung, Nhàn vẫn sống mãi với những giá trị nhân văn của nó.
Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Nhàn Của Nguyễn Bỉnh Khiêm 🌟 10 Bài Hay
Để “lánh đục về trong”, rời xa chốn quan trường rối ren, tham tàn, các nhà nho xưa thường chọn cho mình cuộc sống ẩn dật. Bên cạnh Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến…, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một trong số những nhà nho nổi tiếng với lối sống thoát tục này. Bài thơ “Nhàn” đã thể hiện được cuộc sống đạm bạc và nhân cách cao quý của Bạch Vân Cư Sĩ.
Khác với cuộc sống lúc làm quan trong triều đình, cuộc sống khi về ở ẩn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật giản dị, điều này được khắc hoạ rõ nét trong 2 câu thơ đề:
Chỉ với hai dòng thơ trên, bạn đọc có thể hình dung ra được một lão ông đang ung dung, thảnh thơi với cuộc sống của mình. “Mai” là dụng cụ lao động được con người sử dụng vào công việc đào đất, đào giếng. “Cuốc” dùng để lật xới đất, làm tơi xốp đất. Nhờ có cuốc mà những người nông dân có thể trồng rau, lúa, ngô, khoai, sắn phục vụ cho đời sống.
Cần câu dùng để câu cá, cải thiện bữa ăn hàng ngày hoặc cũng có thể đó là một thú vui tao nhã của nhà thơ nhằm mục đích thư giãn. Mai, cuốc, cần câu đều là những vật dụng không thể thiếu của nhà nông và dường như Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trở thành một lão nông dân thực thụ khi có những vật dụng ấy trong tay.
Tuy mỗi loại chỉ có “một” nhưng đối với nhà thơ thì bấy nhiêu đó cũng đủ khiến ông hài lòng. Từ láy “thơ thẩn” bộc lộ sự ung dung tự tại, hài lòng với cuộc sống tự cung tự cấp ở hiện tại. Dù cho biết bao con người ngoài kia có “vui thú nào” thì ông vẫn một lòng kiên định với lối sống ấy. Ông tự lao động để tạo ra thành quả, không phụ thuộc vào bất kì ai và không có ai lay chuyển được mình. Một cuộc sống như vậy chẳng phải là rất “nhàn” hay sao?
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện rõ thái độ coi thường danh lợi và khẳng định một lối sống trong sạch, tự tại của chính mình. Chẳng vậy mà trong bài “Ngụ hứng” ông đã viết:
Với cuộc sống vừa nhàn thân lại vừa nhàn tâm ấy, tác giả tự nhận mình là tiên khách. Ông tìm thấy sự thanh nhàn trong cuộc đời ẩn dật và luôn tự hào về cuộc sống mà bản thân đã chọn.
Có thể nói, 2 câu đầu trong bài thơ “Nhàn” đã làm nổi bật cuộc sống thoát tục, hòa hợp với thiên nhiên đất trời và nhân cách cao khiết của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Có lẽ vì điều đó mà bài thơ vẫn tồn tại cùng dòng chảy của văn học suốt hơn bốn thế kỉ đến nay.
SCR.VN chia sẻ 🌹 Cảm Nhận Về Bài Thơ Nhàn 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) đỗ Trạng nguyên; học vị cao nhất thời phong kiến, làm quan dưới triều nhà Mạc được 8 năm. Nhận thấy xã hội rối ren, nạn cát cứ và tranh chấp giữa các tập đoàn phong kiến Lê – Mạc, Trịnh – Nguyễn kéo dài, ông bèn cáo quan về ẩn cư trên 40 năm ở quê nhà, làm am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong, Trường Xuân, lập quán Trung Tân ở bến Tuyết Giang, dạy nhiều học trò, do đó được người đời gọi là Tuyết Giang phu tử. Tại đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nhiều bài thơ Nôm nổi tiếng trong đó có bài “Nhàn”.
Bao trùm trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khi về trí sĩ ở quê nhà là cảm hứng thanh nhàn, tự tại, gắn bó với thiên nhiên, không tơ tưởng bon chen phú quý. Cảm hứng ấy được thể hiện bằng những bài thơ có ngôn từ giản dị, tự nhiên mà cô đọng, giàu ý vị. Bài thơ Nhàn trích trong tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi là một trường hợp tiêu biểu.
2 câu đề mở đầu tác phẩm bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:
Mai là công cụ để đào, cuốc để xới và cần câu để kiếm tôm cá. Nhịp thơ 2/2/3 gợi tả phong thái khoan thai của nhà Nho, nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một… một… một…. Dù có lao động vất vả nhưng tác giả tỏ ra mãn nguyện với cuộc sống mà mình đã lựa chọn.
“Thơ thẩn” là sống ung dung, không bận tâm đến sự đời đen bạc. Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời “nước giếng đào, cơm cày ruộng”. Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo trước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong.
Trong lịch sử nước ta, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn nhưng khi được mời lại sẵn sàng ra giúp vua, giúp nước bởi tấm lòng luôn “cuồn cuộn nước triều dâng” khiến ông không thể yên tâm hưởng thanh nhàn nơi thông reo bốn mùa. Để rồi ông đã không thoát được cái án oan khiên thảm khốc.
Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một thế thời khác đã kiên định lối sống ở ẩn. Trong một chừng mực nào đó, cách lựa chọn của Trạng Trình chưa hẳn đã là đúng. Song vì thế thời, để giữ gìn phẩm giá thanh sạch của mình, việc lựa chọn cách sống ấy cũng là một điều đáng để chúng ta trân trọng họ – những nhà nho chân chính.
“Nhàn” là bài thơ có nghệ thuật điêu luyện. Từ ngữ giản dị, mộc mạc, tự nhiên mà ý vị, giàu chất triết lí, phần lớn là thuần Việt. Hình ảnh cô đọng, đối ngẫu chặt chẽ, điển cố hợp lí. Nó đánh dấu một bước tiến của thơ Nôm Đường luật ở nước ta trong thế kỉ XVI.
Tóm lại, 2 câu thơ đầu bài Nhàn có nội dung đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Xã hội phong kiến Việt Nam hồi thế kỷ XVI đang chìm trong khủng hoảng trầm trọng đã khiến nhà thơ chán ghét, tìm cách xa lánh nó, sống trong cảnh nhàn để giữ cho tâm hồn thanh cao. “Nhàn” mà trong sạch, cao quý, vì đó là một nét đẹp của tâm hồn kẻ sĩ thanh cao.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Hoàng Hạc Lâu Của Thôi Hiệu ☔ 8 Bài Hay Nhất
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thảnh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán “Bạch Vân am thi tập” và tập thơ tiếng Nôm “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Bài thơ “Nhàn “được rút trong tập thơ “Bạch Vân am thi tập”. Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.
Xuyên suốt bài thơ “Nhàn” là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 2 câu thơ đề súc tích nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:
Với phép lặp “một”-“một” đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác.
Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này.
Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoài kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để “an phận” với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.
Như vậy với 2 câu thơ đầu, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Tiếp tục tham khảo 🌻 Phân Tích Cảm Xúc Mùa Thu 🌻 15 Bài Phân Tích Thu Hứng Hay
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà tri thức nho học lỗi lạc của nước ta thế kỉ XVI, được tôn làm trạng trình. Ông là người có khi tiết, có nhân cách, có trí tuệ hơn người. Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm người ta thường nghĩ đến triết lí sống nhàn như một kiểu phản ứng với thời thế nhiễu nhương. Tác phẩm Nhàn được rút trong tập Bạch Vân quốc ngữ thi, một tác phẩm nói lên được quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ vẽ ra một nhà trí sĩ, ẩn sĩ với lối sống nhàn.
Hai câu thơ đầu mở ra hoàn cảnh sống thanh nhàn của người tri sĩ ẩn dật:
Cách dùng số đếm “Một… một… một…”, cùng cách ngắt nhịp chậm 2/2/3 diễn tả trạng thái ung dung, thanh nhàn của kẻ sĩ khi trở về thôn quê. Đi kèm với số từ là danh từ: mai, cuốc, cần câu là dụng cụ lao động của nhà nông, câu thơ đưa người đọc trở về với cuộc sống chất phác, nguyên sơ, dùng mai để đào đất, cuốc để xới đất trồng rau.
Tuy nhiên, câu thơ không diễn tả sự vất vả, khổ cực mà là một thái độ ung dung,là niềm vui, niềm hạnh phúc trong cuộc sống lao động hàng ngày. Từ “thơ thẩn” chính là sự thảnh thơi, tự do, được tận hưởng cuộc sống, được làm điều mình thích, hòa mình vào với cuộc sống thôn quê mặc cho những ai chạy theo danh lợi, còn ta vẫn kiên định lối sống ung dung, thư thái với thú chơi lành mạnh, tao nhã.
Bài thơ Nhàn và đặc biệt là 2 câu thơ đầu được viết bằng các ngôn từ giản dị, cô đọng nhưng giàu ý vị. Cách ngắt nhịp thơ linh hoạt, giọng điệu vừa hóm hỉnh, vừa thăng trầm sâu sắc, kết hợp với các hình ảnh trong bài thể hiện tư tưởng nhàn dật, thanh cao. Là con người nhập thế, phải lựa chọn lối sống ẩn dật. Về nhàn là để cho nhân cách không bị vấy bẩn, để vượt qua khỏi vòng danh lợi, Như vậy, dù có chọn lối sống nhàn thì đối với nhà văn vừa không nhẫn tâm lại vẫn có thể lo cho việc đời, việc nước.
Bài Nhàn là tiêu biểu cho đặc điểm thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngôn từ giản dị nhưng giàu hàm súc, giàu ý nghĩa, đậm đà tính triết lí về dại khôn, về danh lợi. Qua bài thơ, người đọc cảm nhận được một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn và quan niệm sống của thi nhân còn có tác dụng hướng ta tới niềm thanh tịnh của tâm hồng, bồi đắp cho con người thêm tri thức.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
10 Bài Văn Phân Tích Bài Thơ “Nhớ Đồng” Của Tố Hữu Hay Nhất
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, viết chính thức vào tháng 7 năm 1939. Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do. Mời các bạn tham khảo bài văn phân tích tác phẩm “Nhớ đồng” của nhà thơ Tố Hữu mà chúng mình tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 10Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Đến với thơ ông, ta bắt gặp những áng thơ tràn đầy niềm tin, lý tưởng cách mạng. Tập thơ “Từ ấy” của ông tiêu biểu cho hồn thơ sục sôi, nhiệt huyết ấy, bài thơ “Nhớ đồng” là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.
Bài thơ được viết trong hoàn cảnh Tố Hữu bị cầm tù nơi ngục tối. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết và nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của tác giả. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, là tiếng thơ tựa tiếng hát yêu thương, bộc lộ nỗi cô đơn, nỗi mong nhớ sâu thẳm nơi đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”
Lối so sánh hơn độc đáo của tác giả gợi lên nỗi nhớ da diết đầy xúc cảm. Không có gì thương và buồn hơn là những ngày trưa thương nhớ quê nhà. Càng nhớ lại càng cô đơn, nỗi nhớ càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn lại càng ngập tràn, “hiu quạnh” bấy nhiêu. Một tiếng hò tình quê cất lên thắm thiết mang thương nhớ cồn cào hay tiếng hò ấy là tiếng lòng hiu quạnh, lạnh giá, đơn độc của nhà thơ nơi chốn tù đày đau thương. Niềm mong nhớ ấy cứ khắc khoải, chực chờ, bao hình ảnh quê hương dần hiện về trong tâm khảm. Càng nhớ càng thương lại càng buồn trĩu nặng:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thuở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
Nơi chốn quê nhà thương yêu ấy có biết bao vẻ đẹp, bao dấu ấn mãi chẳng thể nào quên được. Đó là những gì đẹp đẽ nhất mà chỉ có ở chốn quê hương mình mà thôi, chẳng nơi đâu có thể thay thế được. Đó là hương gió nhẹ nhẹ hòa trong mùi đất lành thơm ngát, là những luồng tre xanh toả bóng mát chiều hè.
Quê hương ấy còn là những cánh đồng có ô mạ xanh tươi nơi có những người dân cày một nắng hai sương lam lũ, chân chất, thật thà. Và đó còn là những ruộng nương khoai sắn ngọt bùi, là những mái nhà tranh ấm êm bình dị, tuy nghèo khó mà tấm lòng bao la, chứa chan tình người dành cho nhau. Cảm xúc theo nỗi nhớ trào dâng trong lòng, tiếng thơ mang theo biết bao tâm tình trong sâu thẳm tâm hồn.
Điệp từ “Đâu” đứng ở đầu câu vừa như một câu hỏi tu từ lại vừa như đang kiếm tìm chút gì đó thân thuộc của những ngày xưa nơi quê nhà, khi mà chưa có chiến tranh, mất mát, đau thương. Đâu rồi những khung cảnh của ngày xưa, hiện tại sao thấy trống vắng mà hụt hẫng đến vậy.
Đâu chỉ có cảnh vật quê hương, nỗi nhớ đó còn hướng về những con người của miền quê. Những người lao động cần cù nhẫn nại, qua bao gian khó vẫn kiên cường tranh đấu, vẫn hăng say với lao động. Nhà thơ nhắc đến họ bằng tình yêu và niềm kính trọng
“Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ủ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.”
Dù có vất vả mệt nhọc, có khó khăn chồng chất thì những người nông dân vẫn giữ vững niềm tin, lạc quan trong gian khó. Vẫn cất lên giọng hò tha thiết xua tan những âm u, não nề. Bao kỉ niệm vẫn vậy, vẫn còn đó, vẫn được giữ mãi trong kí ức của nhà thơ. Khi nỗi nhớ cứ ngày một lớn thì kỉ niệm cũng theo dòng cảm xúc ùa về trong tâm tưởng. Nỗi nhớ làm sao ai có thể ngăn được. Một lần nữa, nhà thơ phải thốt lên nghẹn ngào:
“Gì đâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò”
Biết bao vẻ đẹp xưa hiện về khiến lòng người không khỏi khắc khoải, nhớ thương. Nhưng đâu ai có thể sống mãi với quá khứ được, hiện tại luôn là thứ khiến con người phải trăn trở, đấu tranh:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!”
Thực tại sao phũ phàng quá đi thôi, chỉ có nhà thơ đang nơi đây một mình một cõi. Bao cách biệt xa xôi thấm dần vào nỗi buồn kẻ cô đơn, chiếc bóng, những điều thân thuộc, bóng mẹ già cũng xa rồi, chỉ còn lại nỗi thương nhớ cứ dằn vặt mãi không thôi. Những lời cảm thán “Chao ôi”,”Ôi” cất lên nghe ngậm ngùi mà thê lương quá. Ta như cảm nhận được nỗi xót xa, đắng cay hòa trong từng lời thương nhớ vậy.
Tố Hữu – một nhà thơ- một chiến sĩ cách mạng yêu quê hương đất nước mình bằng một tấm lòng thiết tha, trọn vẹn. Tâm hồn luôn hướng về nguồn cội, về dân tộc và tổ quốc thân thương, gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân lao động. Dẫu trong ngục hiểm nguy, khó khăn vẫn hướng về cuộc sống ngoài kia với những nỗi đau của dân tộc. Không chỉ là nhân dân, là đồng quê, Tố Hữu còn tìm về mình của những ngày xưa qua nỗi nhớ:
“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.”
Ai cũng có cho mình một quá khứ và Tố Hữu cũng vậy, nhà thơ nhớ về những tháng ngày đầy gian nan khi đi tìm lẽ sống, kiếm lẽ yêu đời nhưng vẫn mãi một vòng quanh quẩn, chẳng tìm đâu ra một lối thoát cho cuộc sống chính mình. Nhưng rồi, mọi chuyện cũng trôi qua và trở nên tốt đẹp hơn khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng sáng soi:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng ưa ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Lòng đầy hưng phấn, nhẹ nhàng khi tìm thấy chính niềm yêu trong lựa chọn của mình. Sự phấn khởi, hăng say, tự hào và khát khao cuộc sống được cất lên như một nốt nhạc tươi vui giữa cuộc đời. Còn gì vui hơn khi được sống với chính mình, có được sự nhẹ nhàng trong tâm khảm và được là chính mình cơ chứ? Hình ảnh so sánh niềm “nhẹ nhàng” với cánh chim thật độc đáo và ấn tượng, đó phải chăng đây chỉ là niềm vui riêng mà còn là niềm vui chung cùng với thiên nhiên, đất trời.
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!”
Bài thơ kết thúc bằng lời thơ được lặp lại đầy ắp một niềm thương, niềm khắc khoải khôn nguôi. Có lẽ, nỗi nhớ mãi vẫn sục sôi, cuộn trào trong trái tim người thì sĩ yêu nước.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 10
Từ ấy được xem như những trái ngọt đầu tiên mà Tố Hữu đã gặt hái được đế dâng cho đời. Đến với tập thơ chúng ta không chỉ bắt gặp một thanh niên yêu cách mạng, say mê lí tưởng mà còn thấy được hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng đang sông và chiến đâu. Vì vậy, Từ ấy không chí có những bài thơ tràn đầy cảm xúc say mê lí tưởng, mà còn có những bài ghi lại những chặng đường chiến dấu bị tù đày gian khổ, trong số đó phải nói đến bài thơ Nhớ đồng.
Bài thơ được Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, bốn tháng sau khi nhà thơ bị mật thám bắt và cầm tù. Toàn bài thơ là nỗi nhớ tha thiết. Mở đầu bài thơ là lôi nói so sánh được nhà thơ nêu ra như đê xác định tâm thế cô đơn của chính mình:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Nhà thơ như tự hỏi chính lòng mình để rồi tự khẳng định tâm trạng của chính mình. Đày chính là tâm trạng cô đơn, quạnh vánh và cồn cào nhớ thương. Câu thơ như một tiếng thở dài buồn đến da diết. Chúng ta lại chợt nhớ đến hình ảnh của người chiến sĩ cộng sản lần đầu tiên bị ném vào tù trong bài Tâm tư trong tù:
Thế nhưng đến đây ta không chỉ cảm nhận thấy sự cô đơn mà còn cảm thấy cái buồn tê tái, cái hiu quạnh đến lạnh lẽo, và sự thương nhớ như đang vò xé gan ruột. Sau hai câu thơ đầu mở ra như lời bộc bạch tâm sự, nhà thơ lần lượt cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhung trong tâm hồn người cách mạng:
Đâu gió còn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thuở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn dời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im lơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…
Không gian của bài thơ như được trải rộng ra. Đó chính là không gian của quê hương yêu dấu nơi có mùi đất quá quen thuộc, nơi có bóng tre mát rượi, những ô mạ xanh mơn mởn, nơi trải dài nương khoai, nương sắn và cả những mái tranh thấp bình dị. Không gian được trải rộng ra phải chăng cũng chính là sự trải rộng của nỗi nhớ trong lòng nhà thơ.
Đáng lưu ý là trước mỗi cảnh vật quen thuộc như vậy là từ đâu dùng để’ hỏi. Tuy nhiên ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần là sự tìm kiếm, là hỏi vị trí mà chính là đang tự hỏi lòng mình, đang lục lại trong trí nhớ những gì đả xa, đã mất. Đâu gợi lên trong chúng ta sự mất mát trống vắng.
Từ Đâu được Tố Hữu lặp lại năm lần liên tiếp làm cho nỗi nhớ như càng được nhân lên dồn dập, làm cho sự trống vắng mất mát hụt hẫng trong lòng nhà thơ nhân lên đến xót xa. Vì vậy có thể nói đây đã trở thành tiếng gợi nhớ thương đến cồn cào da diết. .Và nỗi thương nhớ hiu quạnh ấy như được trải dài ra bởi:
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…
Có thể nói, hai khổ thơ trên đã khái quát một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương đồng ruộng. Nồi nhớ ấy dâng lên và thốt ra nghẹn ngào thấm thía:
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Vẫn là cách nói so sánh diễn tả sự vắng vẻ cô đơn. Ôi và nhớ ơi xuất hiện trong cùng một câu thơ làm cho nỗi nhớ quê càng trở nên da diết hơn bao giờ hết.
Nhớ đến ruộng đồng quê hương nhà thơ đồng thời hướng nỗi nhớ của mình đến con người. Đây là những con người lao động gần gũi đang lưng cong xuống luống cày, vãi giống tung trời. Nhưng tất cả cũng chỉ là trong tiềm thức, chỉ còn là nỗi nhớ. Và giờ này cảnh vật và con người cũng hiện lên đầy buồn nhớ như chính tâm trạng của nhà thơ:
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúc mềm xao xác ủ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hớ não nùng.
Tất cả hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhà thơ càng làm cho nỗi nhớ về cuộc sống thêm da diết. Tất cả đã xa rồi, đối diện với nhà thơ lúc này chỉ là kỉ niệm, những kỉ niệm đang cào xé chĩ có thế mơ tới, chi không thể với tới được. Và một lần nữa nhà thơ đã phải thốt lên:
Gì đâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.
Câu thơ được điệp lại làm cho nỗi nhớ thương, sự cô đơn trong lòng nhà thơ càng tăng lên. Và tất cả kỉ niệm như vụt biến, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng và nhận ra:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhở, chao thương nhở
Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!
Có lẽ đấy là tiếng gọi của sự nhớ thương, là tiếng nói xót xa cho hoàn cảnh bị giam cầm. Người chiến sĩ cách mạng chợt nhận ra thực tại sao mà cách biệt quá xa xôi. Cũng bởi lẽ thế mà nỗi nhớ lại cồn cào thêm. Chi trong một câu thơ thôi mà thương nhớ được điệp tới hai lần. Từ chao càng làm cho nỗi nhớ ấv trở nên da diết xót xa hơn.
Qua nỗi nhớ quê hương, con người chúng ta không chí thấy hiện lên hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng đang cô đơn trong ngục tù mà còn cho ta thấy tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó của người chiến sĩ với quần chúng nhân dân lao động, luôn luôn hướng tới cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là những nét rất cơ bản và quen thuộc về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản bị tù đày trong thơ Tố Hữu.
Sau những khoảnh khắc thương nhớ, nhà thơ chợt nhìn và nhớ về chính bản thân mình. Các khổ cuối của bài thơ sẽ cho ta thấy rõ sự nhận thức ấy.
Trước hết là nhớ về bản thân mình:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.
Vẫn là sự lục tìm trong trí nhớ, song đã có sự nhận thức rất rõ ràng về những ngày xưa. Nhà thơ nhớ lại những ngày bế tắc, những ngày băn khoăn kiếm tìm lẽ sống. Đấy chính là những ngày nhà thơ chưa bắt gặp lí tưởng cộng sản. Những từ ngữ như: vấn vơ, băn khoăn, quanh quẩn đã diễn tả một cách chính xác sự bế tắc trong con người nhà thơ lúc này.
Ba tiếng tôi nhớ tồi. vang lên như một sự nhận thức thấm thía, buồn cho cuộc sống theo mãi vòng quanh quẩn, muốn thoát nhưng chẳng thể bước nổi. Khổ thơ tiếp theo chuyển sang một giọng điệu hoàn toàn khác đầy say sưa hưng phấn:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời
Nhà thơ nhớ lại ngày tôi thấy tôi nghĩa là ngày tự soi vào lòng mình, tự thấy mình đã trưởng thành, thấy lẽ vêu đời. Lúc này là lúc nhà thơ cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được tác giả ví với hình ảnh của con chim cà lơi nhẹ nhàng tung bay trên bầu trời.
Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Niềm vui, niềm hạnh phúc ấy được Tô’ Hữu diễn tả một cách tinh tế bằng các từ say đồng, vui ca hát, bát ngát trời. Đặc biệt với câu thơ nhẹ nhàng như con chim cà lơi, Tố Hữu dùng tới sáu thanh bằng, vì vậy đã diễn tả được cái phơi phới trong tâm hồn nhà thơ — một tâm hồn say mê lí tưởng. Trở về với thực tại, nhà thơ lại đầy ắp tâm trạng:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày.
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Câu thơ mở đầu khổ thơ trên như một lời than. Đây là sự tiếc nuối quá khứ đã qua, là sự xót xa trong nỗi đau thực tại. Tới giờ đây được lặp lại hai lần làm cho sự xót xa được nhấn mạnh thêm. Và lúc này tất cả tâm hồn người chiến sĩ hướng ra cuộc sống bên ngoài: tôi mơ qua cửa khám bao ngày.
Tuy nhiên đọng lại cả khổ thơ là nỗi buồn bị cùm trói trong tù túng, siết chặt trong thầm lặng. Và nếu trước đây, hình ảnh cánh chim được so sánh để diễn tả sự ngây ngất say mê lí tưởng thì giờ đây cánh chim lại gắn với nỗi buồn. Qua đó ta thấy được khát vọng tự do của người chiến sĩ cách mạng. Kết thúc bài thơ là điệp khúc được vang lên lần thứ hai trong bài thơ:
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!
Điệp khúc này tạo cho bài thơ có cấu trúc đặc biệt: mở ra bằng nỗi cô đơn, nỗi nhớ và kết thúc cũng vậy. Vì vậy, có thể nói nhớ là nét chủ đạo bao trùm 44 câu của bài thơ.
Nhớ đồng – cái tên bài thơ đã mở ra đầy nhớ thương. Nhưng bài thơ không chỉ có tâm trạng nhớ què, nhớ những con người say mê lí tưởng, khát khao tự do. Đấy cũng là nét đẹp trong phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng trong thơ Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam nói chung.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 8Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9
Tố Hữu được biết đến và nhắc nhớ trong thi ca Việt Nam là một nhà thơ có hồn thơ da diết đậm chất trữ tình. Và quan trọng hơn là thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Có lẽ Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại.
Thơ Tố Hữu như đã quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là “Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”. Tố Hữu có rất nhiều thi phẩm nổi trội độc đáo và một trong số đó phải kể đến tác phẩm “Nhớ đồng”.
Ta đã biết đến bài ‘Tâm tư trong tù” được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài” Khi con tu hú” được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài “Nhớ đồng’ thì có thể nói cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.
Là người con của xứ Huế mộng mơ. Nên từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ như đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như câu Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Có lẽ chính vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò như đã thôi thúc, đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.
Thi phẩm “Nhớ đồng” đã phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí thân thương. Nếu như người đọc nhận ra rất dễ trong “Tâm tư trong tù’ thì tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ.
Thì dường như ngược lại còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết. Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Bài thơ “Nhớ đồng” có thể chia làm bốn đoạn. Chia ra ở ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Nỗi nhớ dường như cứ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.
Các câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt và da diết của nỗi nhớ thương. “Gì sâu bằng” chính là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Từ nghi vấn Gì kết hợp với tính từ sâu khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong kí ức nhà thơ.
Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ. Nhiều nhất là hình ảnh của mảnh đất cắt rốn chôn nhau cùng với những người dân quê lao động lam lũ, vất vả trên đồng ruộng:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu An Cựu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang lững lờ trôi. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp xiết bao! Vậy mà giờ đây, quê hương thân yêu chỉ cách có bức tường nhà lao mà sao xa vời vợi ?! Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Đâu gió cồn thơm…, Đâu ruộng tre mát…, Đâu từng ô mạ…, Đâu những nương khoai…, Đâu những đường con…, Đâu nhà tranh thấp… ? Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.
Có thể nói giọng điệu thơ mở trong bài như da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,
Những người nông dân hiền như đất, học hăm chỉ lao động quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực, nghèo túng vẫn không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai ?
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.
Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất là những hình ảnh đầy nghẹn lời, những hình ảnh đó đườn như cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!
Điệp từ nghi vấn Đâu đặt ở đầu câu cùng với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Dường như người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này.
Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai mà nó dương như cứ cắt cứa không nguôi. Tố Hữu luôn luôn nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc trong câu thơ trên như đã phát triển rất đúng với lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.
Đó là những ngày người thanh niên học sinh yêu nước đang băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi Mặt trời chân lí chói qua tim.
Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, lạc quan, tin tưởng là để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ như chợt bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động. Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn:
Trên chín tầng cao bát ngát trời…
Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng, nhớ những bóng hình quen thuộc của quê hương, gia đình, nhớ mẹ già, nhớ những người đã khuất, nhớ những ngày đã qua và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Hình ảnh so sánh thật độc đáo có sức gợi hình “Như cánh chim buồn nhớ gió mây’ như đã thể hiện thần tình được nỗi nhớ đồng da diết. Và thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.
Hai câu kết của bài còn là sự lặp lại của hai câu thơ đầu. Chính lối kếu cấu đặc sắc này đã tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ như khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm vậy, vòng sóng ấy mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Bài thơ “Nhớ đồng” thì Tố Hữu đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương da diết đến cháy bỏng cứ thế, cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng chính là nguồn động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước này.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 7Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 8
Bài Nhớ đồng được sáng tác khi nhà thơ đang bị giam trong nhà lao Thừa Phú (Huế). Cả bài thơ là tâm tư của người tù – chiến sĩ vốn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống và con người quê hương xứ sở.
Trong những buổi “trưa hiu quạnh” của cuộc sống mất tự do sau cửa khám, nỗi Nhớ đồng trong lòng người tù – nhà thơ dâng lên từ một âm thanh quen thuộc – tiếng hò – vọng vào nhà tù. Thế là bao nhiêu kí ức về đồng quê hương cùng lúc hiện về trong tâm tưởng. Điệp khúc:
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
– Gì đâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!
được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh nỗi buồn thấm thía, da diết, khắc khoải trong tâm can con người. Hình ảnh đồng quê, làng xóm, con người,… dần dần hiện lên trong trí nhớ người chiến sĩ vốn gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.
Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, mùi vị của cuộc sống dân dã nơi đồng quê cùng òa ập, hiển hiện: gió cồn thơm đất nhà mùi, ruồng tre (rặng tre) mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai, xóm nhà tranh, lúa mềm xao xác, tiếng xe lùa nước, giọng hò đưa hố,… Ở trong tù, nhà thơ vẫn gắn bó thiết tha với đời sống.
Trong nỗi nhớ niềm thương, con người và cảnh vật quê hương càng trở nên sống động, gần gũi đến lạ lùng. Nỗi Nhớ đồng quê da diết nhất chính là nỗi nhớ những người nông dân quê cần cù, chất phác hiền như đất, rất thật thà quen dãi nắng dầm mưa. Trong kí ức và tâm hồn nhà thơ, những người dân quê đáng yêu đáng quý ấy chính là những người làm chủ đất đai, làm nên mùa màng, làm nên sự sống – niềm hi vọng âm thầm, bền bỉ mà bất diệt của đồng quê:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Đoạn thơ như chạm khắc vào trời đất một bức tượng khỏe khắn – bức chân dung người lao động, tạo nên một vẻ đẹp trưởng cữu của những công việc lao động đem lại giá trị của sự sống, hi vọng vào tương lai.
Điệp từ đâu những, đâu rồi, thương nhớ ơi,… làm nỗi nhớ càng thêm sâu sắc, khắc khoải. “Nhớ đồng” là nhớ rất cả những gì làm nên cuộc sống ngoài nhà tù, mà giờ đây, người chiến sĩ đang trong hoàn cảnh phải cách biệt với tất cả. Cảm giác nhớ da diết, buồn não lòng là cảm giác, nỗi buồn rất thật.
– Phần sau của bài thơ tạo ra một bước chuyển trong mạch tâm tư của tác giả. Sau thoáng buồn nhớ da diết, người chiến sĩ nhớ lại hình ảnh chính mình của những ngày xưa, cái thời “theo mãi vòng quanh quẩn” để đến với cách mạng, với Đảng như sự thức tỉnh của lí trí không cho phép nhà thơ đắm chìm mãi trong nỗi nhớ thương.
Và thế là nhà thơ lại khao khát tự do, thèm muốn được thoát khỏi chốn lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu. Hình ảnh con chim sơn ca “Say đồng hương nắng vui ca hát – Trên chín tầng cao bát ngát trời” mang đậm cảm hứng lãng mạn bay bổng, nó tạo nên sự đối lập cao độ giữa ước mơ và thực tại nghiệt ngã của “cảnh thân tù”.
Tâm tư của người chiến sĩ trong tù được thể hiện khá chân thực và liền mạch: Nỗi nhớ được đánh thức từ “một tiếng hò đưa hố não nùng”. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê từ cảnh sắc đến những dáng hình quen – từ những người dân quen lao động miệt mài đến những người mẹ già thân thương đơn chiếc. Rồi nhớ về những ngày còn tự do; cuối cùng trở lại với thực tế “cảnh thân tù” để dặn lòng phải vượt lên hoàn cảnh, kiên trì lẽ sống và tin vào ngày mai.
Cùng với các bài thơ khác trong tập Từ Ấy, Nhớ đồng đem đến cho thơ Việt Nam trước những năm 1945 một “cái tôi” trữ tình cách mạng độc đáo.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 7
Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm bứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!
– Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thè sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai.
Họ chất phác và bền bỉ như đất đai. Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày. Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài.
Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ấy là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 5Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6
Tố Hữu hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế, bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế, 1939). Vào tù, Tố Hữu sáng tác nhiều bài thơ diễn tả tâm tình của một cách mạng trẻ tuổi, sau này được tập hợp trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy. Bài thơ Nhớ đồng là những dòng tâm tư nồng nhiệt, tha thiết, trong trẻo của nhà thơ trẻ hướng về ruộng đồng, quê hương, về những con người thân yêu, về những kỉ niệm của một thời hoạt động cách mạng sôi nổi.
Bài thơ có lời đề “tặng Vịnh” (Nguyễn Chí Thanh) một người bạn đồng hương, cùng hoạt động cách mạng và cùng bị tù trong nhà giam Thừa Phủ. Có lẽ bài thơ được gợi hứng trực tiếp từ giọng hò của Vịnh trong những trưa tù cô quạnh:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Giọng hò của người bạn tù đã gợi lên hình ảnh đồng quê, thức dậy trong lòng nhà thơ tình yêu quê hương, xóm làng:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Điệp từ “đâu”‘ tạo ra nhạc điệu tha thiết, diễn tả niềm thương nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ trẻ. Các giác quan của thi sĩ được thức dậy với đồng quê. Hương vị đậm đà của gió, của đất, và tài hoa của Tố Hữu chỉ là một từ (cồn) gợi lên hình ảnh của xứ Huế “Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi”. Tác giả cũng tinh tế trong cảm nhận, nghe được hơi thở của “ruồng tre mát”, nhìn thấy từng ô mạ xanh mơn mởn, thấm được vị của “những nương khoai ngọt sắn bùi”.
Trong nỗi nhớ đồng quê của nhà thơ chẳng những có tình cảm nồng nhiệt mà còn có tư tưởng, đây là nét mới so với các nhà thơ lãng mạn đương thời:
Xóm nhà tranh chấp ngủ im hơi
Những “con đường” thân thuộc mà cũng chật chội quá, những xóm nhà tranh thương quá, sao mà nghèo! Một đồng quê tù đọng, “âm u”, “không đổi”. Nhìn ra sự bất biến của đồng quê, mà cũng là của xã hội đương thời, đã chớm nở tư tưởng muốn thay đổi, cách mạng!
Sự “cựa quậy” về tư tưởng ấy đã làm xê động cả điệp khúc của bài thơ. Từ:
Đã thành:
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Nhưng nhà thơ không tắt niềm tin tưởng vào cuộc sống. Nhà thơ gửi gắm niềm hi vọng vào những con người “lưng cong xuống luống cày”, những bàn tay gieo hạt “tung trời sớm mai”:
Đâu những lưng còng xuống luống cày
Những hình ảnh khoa trương gợi nhớ bài thơ “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của Huy-gô:
… Bóng đêm đầm mặt ruộng.
Tơi tả áo quần giây
Cụ già vung nắm giống
Mùa sau xuống luống cày
Dáng người cao đen sẫm
Vời vợi trên đồng sâu
Hẳn lòng người tin lắm
Tháng ngày kia đến đâu…
hay là:
Trong màn đêm lan rộng
Nghe lẫn tiếng rì rào
Cánh tay người gieo giống
Như vươn tới trời sao…(Tố Hữu dịch)
Nổi bật lên trong nỗi nhớ đồng là hình ảnh của những con người thân quen, ruột rà, mới gần gũi đây mà đã xa xôi, cách biệt:
Đâu bóng hình quen đâu cả rồi
Sao mà cách biệt quá xa xôi.
Những con người đồng quê mà nhà thơ đã thân quen “tự thuở xưa”, và đã hiểu được bản chất, tâm tư, tình cảm cuộc sống trong những con người “dãi gió dầm mưa” đó:
Những hồn chất phác hiền như đất
Và sâu thẳm trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ mẹ già… Nỗi nhớ da diết dâng trào lên trong âm điệu trùng điệp đến nao lòng:
Chao ôi, thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!.
Rồi nhà thơ nhớ lại chính mình. Người thanh niên trong tù ngục, kiếm tìm lại những hình ảnh của người thanh niên “ngày xưa”:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời.
Kỉ niệm không bao giờ phai nhòa trong tâm trí nhà cách mạng trẻ tuổi là những giây phút bắt gặp lí tưởng:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Tác giả hồi tưởng lại một cách hết sức xúc động bằng hình ảnh so sánh thích hợp (nhẹ nhàng như con chim cà lơi), bằng lối khoa trương hồn nhiên (trên chín tầng cao bát ngát trời). Với cánh chim tự do, say sưa với hương đồng gió nội, “vui ca hát” trên không gian của đồng quê cao rộng, nhà thơ vừa hồi tưởng lại kỉ niệm đẹp đẽ của giây phút bắt gặp chân lí cách mạng, vừa diễn tả nỗi thèm khát của cánh chim tự do, nay bị nhốt trong lồng:
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Bài thơ Nhớ đồng đã biểu hiện một cách chân thành và sinh động tâm tư của một nhà cách mạng trẻ tuổi bị lâm vào cảnh tù ngục. Nỗi khao khát cuộc sống tự do, tình cảm thương nhớ đồng quê, thương nhớ những người thân yêu… được biểu hiện bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, trong trẻo.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 5
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!…”
Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.
Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên.
Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa.
Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng”… như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi.
Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!
Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng…” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”
Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí.
Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:
“Đâu những đường con bước vạn đời
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”
Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình!
Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế…
Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:
“Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Vãi giống tung trời những sớm mai?”
Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:
“Một ông lão đang tung
Gieo mùa sau xuống đất.
Bóng ông già cao thẫm
Giẫm trên rãnh cày sâu.
Chắc ông tin tưởng lắm.
Vào ngày tháng ruổi mau.”
(Xuân Diệu dịch)
Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”!
Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!
Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn!
Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”
Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương.
Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế!
Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thiệt thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước.
Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:
“Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Trên chín tầng cao bát ngát trời…”
Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, ngạo nghễ, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời.
Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng.
Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.
Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ khắng khít với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù.
Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 3Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập lơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 Tố Hữ bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừ Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương.
Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc… của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.
Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phầm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.
Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.
Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên.
Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Say hương đồng vui ca hát
Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.
Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến.
Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 2Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 3
Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh.
Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù.
Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ.
Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi
Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài. Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:
Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”.
Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.
Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:
Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp.
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa:
Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 1Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 2
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm mười sáu tuổi, ông được giác ngộ cách mạng và gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản. Năm mười tám tuổi, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Từ ấy (1937 – 1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lí tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
Nếu như bài Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài Nhớ đồng, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.
Tố Hữu là người con của xứ Huế. Từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.
Bài thơ Nhớ đồng phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí thân thương. Ở Tâm tư trong tù, tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ ; còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết.
Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn. Ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Nỗi nhớ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.
Câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm…,
Đâu ruộng tre mát…,
Đâu từng ô mạ…,
Đâu những nương khoai…,
Đâu những đường con…,
Đâu nhà tranh thấp… ?
Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.
Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:
Những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai, nhà thơ nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với logic tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu thơ đầu, tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm, mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;
Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng là động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 1
Bài thơ là tiếng lòng da diết đối với cuộc sống bên ngoài của người chiến sĩ cộng sản. Nỗi nhớ ấy thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân đất nước, yêu cuộc sống của chính mình.
Đăng bởi: Hoàng Nguyên Lâm
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu hay nhất
10 Bài Văn Phân Tích Truyện “Tam Đại Con Gà” Hay Nhất
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 10
Có một câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng về vấn đề này đó chính là Tam đại con gà. Tam đại con gà là một trong những câu chuyện ngụ ngôn đặc sắc của kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Truyện viết về một anh đồ đã dốt nhưng lại “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, anh ta bản thân đã kém cỏi, dốt nát, theo lẽ thường thì nên học tập trau dồi cho bản thân nhưng ở đây lại bày đặt đi làm thầy đồ. Thử hỏi thầy đồ dốt thì còn đòi dậy ai? Dậy rồi các lứa học trò của thầy sẽ học hành ra sao đây?
Quả thật quá trình dạy học của anh đồ này cũng đầy gian truân. Khi nhìn thấy chữ “kê” nghĩa là con gà thầy cũng không biết là chữ gì, thầy đồ này không phải là kém hiểu biết mà thực sự là quá dốt, không cả biết nhận mặt chữ, đọc chữ. Thầy cũng biết về sự kém cỏi ấy của mình nên mới ngại ngùng mà bảo học trò đọc nhỏ “Dủ dỉ là con dù dì”.
Thầy đã dốt nhưng lại dùng sự khôn lỏi, những mánh khóe lừa lọc của mình để lấp liếm đi cái sự dốt nát ấy. Thầy sợ người nhà học trò phát hiện ra sẽ cười chê, sẽ khinh bỉ mình thậm chí là đuổi mình. Và nếu không ai phát hiện ra thì cái sự thật thầy đồ dốt nát sẽ còn tiếp diễn mãi, thầy sẽ cứ như vậy mà đi dậy lớp lớp những học trò mới.
Sau khi cho học trò đọc nhỏ mặt chữ, thầy đồ cũng khá cẩn thận, quyết định gieo quẻ âm dương để xin ý kiến. Run rủi thế nào cả 3 quẻ đều được nên thầy tự tin đắc thắng. Thầy đồ này không những dốt lại còn mê tín. Thầy tin rằng thần linh, trời phật đã nói đúng thì là đúng, bởi vậy hôm sau thầy mới tự tin cho học trò của mình đọc thật to bài giảng. Khi bố của lũ trẻ chạy lại trách thầy tại sao lại đọc chữ “kê” ra chữ “dủ dỉ” thì thầy đồ đã chống chế bằng bài ca Tam đại con gà:
“Dủ dỉ là con dù dì
Dù dì là chị con công
Con công là ông con gà”.
Sự thật mười mươi đã vỡ lẽ, thầy đồ này là người không hề có một chút kiến thức chuyên môn nào, không có cả chữ nghĩa, không có cả hiểu biết xã hội. Thực chất trên đời này làm gì có con nào gọi là con dủ dỉ, con dù dì, đó có lẽ là một giống loài mới mà nhân loại còn chưa phát hiện ra. Và tổ tiên nguồn gốc của con gà cũng chẳng bao giờ là con công cả. Thầy đã dốt nhưng lại cố dùng cái dốt của mình để lấp liếm, chữa cháy cho sự ngu si. Nếu không được đả thông, có lẽ cả lớp học trò này rồi cũng sẽ bị thầy truyền đạt những kiến thức sai lệch.
Tam đại con gà đã phản ánh một tệ nạn khá đau thương của xã hội. Những người dốt nát, ngu si lại đi làm nghề dạy học, họ như vậy thì những thế hệ con em làm sao có thể học tốt, học giỏi được đây. Không những vậy khi bị vạch trần sai sót thì họ không những không nhận sai và tiếp thu mà lại còn tìm cách che lấp khuyết điểm của mình, dùng cái sai che đậy cái sai, dùng cái ngu dốt để bào chữa cho cái ngu dốt. Đây là những suy nghĩ, hành vi đáng lên án, cần phải loại bỏ trong tư duy con người.
Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, không ai sinh ra đã biết tất cả. Thà để mọi người chê cười một lúc, còn hơn để mọi người khinh bỉ cả đời. Mỗi con người không nên giấu dốt, cái dốt thì dù giấu diếm đến đâu cũng sẽ có ngày lòi ra. Câu chuyện là lời phê phán, lên án sâu sắc đối với những người không có tài, không có học nhưng lại muốn thể hiện, muốn kiếm cơm bằng sự dốt nát ấy của mình. Thay vì tìm cách che đậy nó, hãy học hỏi, trau dồi để thay đổi và trở lên hoàn thiện hơn.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 9Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 10
Truyện cười dân gian là những tác phẩm tự sự ngắn có kết cấu chặt chẽ có kết thúc bất ngờ, tác dụng gây cười nhằm mục đích giải trí hoặc phê phán, châm biếm, đả kích cái xấu xa. Trong đó tiêu biểu là tác phẩm Tam đại con gà. Truyện nói về cái dốt nát nhưng lại thích đi khoe khoang mình là người thông minh có học nên do đó tạo ra những mâu thuẫn trái tự nhiên.
Truyện đề cập dến một người dốt nát nhưng tỏ ra hay chữ và đi dạy học. Mặc dù kiến thức của người này có rất ít như hạt cát ở ngoài xa mạc nhưng anh ta vẫn rất là huênh hoang về những kiến thức mình đang có nên đã quyết trí bằng được đi dạy học. Như người ta nói đã đã dốt còn hay chơi chữ vì thế mà làm cho xã hội của chúng ta ngày càng tụt hậu đi không thể phát triển được. Một trong những cái mà chúng ta nhớ nhất đó là sự ngụy biện và những lời lẽ để che đậy sự dốt nát của mình thì chỉ làm cho chúng ta dốt nát thêm.
Đầu tiên ta thấy được tình huống người thầy đang dạy học sinh khi gặp từ “Kê” đây là một từ cực kì đơn giản để dạy trẻ học chữ Hán nhưng người thầy này hoàn toàn không biết. Đã không biết người thầy lại nó bừa, nói liều nên dạy trẻ đọc khẽ, đọc bé. Như vậy ngay từ đầu ta đã thấy người thầy này là một người thầy dốt nát vốn không có kiến thức để dạy học mà vẫn cố đi dạy học. Để bao biện cho sự dốt nát của mình là mình là người thông minh biết nhiều.
Tình huống tiếp theo lại tiếp tục sảy ra là sự kiểm tra đúng sai thầy xin “âm dương và đắc chí thổ công”. Như vậy khi xin thầy sẽ không “sợ nhỡ sai” “bảo học trò đọc khẽ” mà “bệ vệ ngồi trên giường bảo trẻ đọc cho to” và “lũ trẻ vâng lời thầy gân cổ lẽn đọc”. Như vậy qua đây ta lại thấy được người thầy này cực kì dốt nát và cách chữa dốt của thầy cũng thật là buồn cười và ngớ ngẩn.
Ấy vậy mà khi thầy được chủ nhà nhắc nhở thầy mới nhận ra mình là người dốt thật. nhưng thầy vì sĩ diện cao nên không chịu lắng nghe mà lại tìm cách vặt để bảo vệ mình “Dạy cho cháu biết đến tậm tam đại con gà” từ đó lại càng phơi bầy cái dốt cực kì dốt của bản thân. Từ đó tiếng cười càng được bật nên mạnh mẽ trong câu chuyện.
Như vậy ta thấy được đây là một truyện cười làm cho người đọc cười sảng khoái và có ý nghĩa giáo dục con người sâu sắc. Chúng ta cần phải biết lắng nghe, biết tiếp thu và biết chọn lọc cho mình những gì gọi là tinh hoa đáng quý về những kiến thức trong cuộc sống. Không nên vì bản thân mình dốt mà dốt cái dốt của bản thân đi bởi điều đó chỉ làm cho chúng ta dốt nát thêm chứ không làm cho chúng ta phát triển được. Hình ảnh người thầy trong truyện đó là một minh chứng rõ ràng về sự dốt nát của con người và qua những tình huống đó làm cho chúng ta càng thấy rõ tác hại của cái dốt mà thích đi khoe khoang không chịu học hỏi và lắng nghe.
Và trong xã hội cần phải nên tiếng phê phán đả kích và loại trừ những con người như vậy bởi đã đốt không có kiến thức lại đi làm thầy giáo rồi dạy cho những thế hệ mầm non Tương lai của đất nước lại càng dốt thêm. Một người dốt không sao nhưng nhiều người lại là một vấn đề lớn trong xã hội. Làm cho xã hội thiếu người tài giỏi lại ít kiến thức làm cho xã hội mãi lạc hậu không thể phát triển được.
Qua câu chuyện này muốn thể hiện cho người đọc thấy được những điều mà họ nhận thức được để thay đổi mình. Khi chúng ta không biết thì chúng ta nên học hỏi và trau dồi cho kiến thức của bản thân để khi có đủ kiến thức thì chúng ta mới nên nói lại với người khác. Như vậy không những chúng ta đang phát triển mà làm cho cả xã hội phát triển theo. Chúng ta hãy mang câu chuyện này chia sẻ rộng rãi để cho mọi người đọc và thấy được khả năng thực sự của bản thân mình từ đó nên thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh sống để cho mọi người yêu quý và tôn trọng.
Bằng tiếng cười, truyện tập trung phê phán thói giấu dốt phổ biến ở nhiều đối tượng trong cuộc sống. Bản thân cái dốt và sự thiếu hiểu biết chưa phải là cái đáng cười, cái đáng phê phán, đả kích. Cái đáng cười, đáng phê phán mà nhân dân đề cập ở đây là khi người ta dốt mà biết mình dốt mà vẫn khoe là mình giỏi, lại dám nhận làm thầy dạy người khác, đặc biệt là cố tìm mọi cách để giấu đi cái dốt, che đậy cái dốt của mình. Cố giấu dốt để đề cao mình, bảo vệ mình, thực chất đưa đến một kết cục ngược lại. Tự mình hại chính mình, tự mình lật tẩy chính mình. Đó cũng là bài học mà Tam đại con gà muốn nhắc nhở tất cả mọi người.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 9
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 8Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 9
Từ xa xưa, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; cái dốt của học trò thì đáng cười. Thế nhưng, trong cuộc sống lại có rất nhiều con người “ dốt nhưng lại hay nói chữ”. Bởi vậy, cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn mang tính chất giải trí và đồng thời cũng để phê phán chê bai một số loại người trong xã hội. Trong đó có truyện cười Tam đại con gà muốn phê phán chê bai một tật xấu trong nội bộ nhân dân phê phán những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta là giỏi.
Truyện kể về anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ . Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt “văn hay chữ tốt” bản chất đã dốt nát lại muốn càng phơi bày và thầy đã tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Ông cha ta đã có câu: “Đẹp đẽ thì phô ra xấu xa thì đậy lại”. Ấy vậy mà trong câu truyện tình huống đầu tiên khi bác nông dân ngỏ ý anh học trò lại phách lối mình biết nhiều sách. Đã hiểu bản chất mình thiếu hiểu biết lẽ ra người bình thường phải tự ý xấu hổ, cảm thấy mình kém cỏi nhưng anh học trò lại càng lấn tới mà khoe khoang, cho thấy anh là một người vừa ngu dốt vừa khoác lác.
Khi được mời về làm thấy giáo anh vui vẻ nhận. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự mở trang sách ra anh liền thấy mặt chữ dài dòng loằng ngoằn khó hiểu. Yếu tố gây cười cũng được bật ra và dẫn dắt từ đây. Một người không biết gì về chữ nghĩ mà lại đi dậy học không những vậy còn khoác lác ra vẻ ta đây hiểu biết nhiều điều, thật đáng lực cười.
Khi đọc đến “kê” anh không biết là chữ gì lúc đó bọn trẻ lại cứ giục hỏi đây là chữ gì nên anh nói liều :”Rủ rỉ là con rù rì”. Thực chất chữ “kê” có nghĩ là gà. Vì anh không biết ý nghĩa nên nói đại nhưng ngoài cuộc sống làm gì có con vật nào có cách đọc như vậy. Điều này cho thấy không những anh thiếu hiểu biết trên lí thuyết sách vở mà còn thiếu hiểu biết nhiều điều trong kiến thức ngoài cuộc sống. Ban đầu không chắc chắn với ý nghĩa câu chữ anh liền dặn dò học sinh đọc nhỏ vì sợ không đúng người ngoài nghe thấy lại cười mình không biết chữ.
Ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Anh đến bàn thờ thổ công gieo đồng tiền sấp ngửa để xem có đúng “rủ rỉ là con rù rì” không thì Anh đến bàn thờ thổ công gieo đồng tiền sấp ngửa xin cái được ngay anh liền tự tin đắc chí bảo học trò đọc thật lớn. Một người không biết chữ lại khóac lác, đã vậy còn mê tín thật đáng phê phán cũng thật đáng chê cười.
Dốt nhưng lại mê tín, ngày hôm sau bệ vệ ngồi trên giường đắc trí, anh thầy bảo học sinh đọc thật lớn đến khi bố đứa trẻ nghe thấy vậy liền chạy vào nói. Chữ kê là gà mà cách đọc của thầy lại như vậy. Chi tiết này lại là môt tình huống gây cười. Bố đứa trẻ là người lao động chân tay, cuốc đất ngoài vườn mà còn biết chữ kê là gà thế mà thầy lại không biết. Thật đáng lực cười. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Thầy đồ nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”.
Đã dốt rồi nhưng khi bị vạch trần cái dốt đó anh không cảm thấy xấu hổ với mọi người lại đi trách ngược thổ công nhà người ta. Thật đáng chê trách. Cách kể chuyện rất sinh động, chính xác làm cho mỗi tình huống gây cười đều thành công và tạo bất ngờ cho người đọc
Cách phản ứng tức thời của thầy để nói gỡ cho mình: “Dạy cho cháu biết đến tâm tam đại con gà” vô hình chung đã tự phơi bầy không chỉ bản chất dốt nát mà quan trọng hơn còn cả thói giấu dốt, sĩ diện hão. Tiếng cười phê phán đến đây bật lên thật mạnh mẽ và sâu sắc. Đây là biểu hiện của mâu thuẫn dốt nhưng lại thích khoe chữ. Và cũng chính vì thói thích khoe như vậy nên bao nhiêu cái dốt của thầy không chỉ được phô bày đầy đủ mà còn được khuếch đại.
Truyện Tam đại con gà là một câu truyện hay và mang ỹ nghĩa phê phán sâu sắc. Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân, một tật xấu phổ biến. Nhắc nhở chúng ta không nên giấu dốt và hhuyên mọi người phải không ngững học hỏi, rèn luyện tri thức cho bản thân mình.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 7Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 8
Truyện cười là truyện dân gian mang tác dụng gây cười, nhắc về các sự việc , hành vi trái ngẫu nhiên của con người và phê phán xã hội. có phần lớn tiếu lâm nức danh như: Tứ chứng nan y, Tam đại con gà, trả nủa ko thành, Lý do đi ăn mày,…Truyện “Tam đại con gà” là một tác phẩm điển hình, phê phán thói dốt nát và sĩ diện hão của 1 phòng ban ông thầy đồ ngày xưa.
Cốt truyện khá thuần tuý, xoay quanh việc ông thầy đồ dạy trẻ. Ông thầy đồ được mời về để gõ đầu trẻ. với vẻ mẫu mã tưởng chừng văn hay chữ phải chăng, học rộng tài cao nhưng bản chất ông lại rất dốt nát. Vừa dốt nát, ông thầy đồ lại thể diện hão, thích khoe khoang. Chính nghịch lý này tạo ra nhiều cảnh huống, câu chuyện bi hài.
Những tình huống khó xử nhưng lại gây cười liên tiếp xảy ra. Tình huống trước nhất đề cập tới trình độ học thức của thầy đồ. 1 hôm lúc cậu học sinh hỏi từ ”kê” tron sách “Tam thiên tự”. Ông thầy đồ không biết chữ gì lại thấy trò hỏi gấp nên cuống nói: “ dủ dỉ là con dù dì”.
Sau đấy ông bảo trò đọc khẽ vì sợ mình sai thì rất hổ hang. Người đọc lúc đọc đến đoạn này đều phải bật cười vì trên đời này làm cho gì với vật nào tên “dù dì”. Qua đấy thấy rõ trình đồ này rất kém nhưng lại giấu dốt, thích khiến cho nghề dạy trẻ- một nghề cao quý, đòi hỏi học vấn sâu rộng.
cảnh huống gây cười tiếp theo là việc ông thầy đồ khấn hỏi thổ thần xem chữ” kê” sở hữu đúng là nghĩa mà ông thầy đồ đề cập mang cậu học sinh không. Xưa có câu:” ko biết thì phải hỏi, muốn nhiều năm kinh nghiệm thì phải học”; “Không biết thì dựa cột mà nghe”. thế mà ông thầy đồ lại chọn phương pháp mê tín, mù quáng tin vào việc khấn ông địa.
Đỉnh điểm nhất trong truyện, khiến cho người đọc cười phá lên là tình huống thầy bảo học trò nhắc lớn câu” Dủ dỉ là con dù dì”. Chi tiết đó càng nhấn mạnh sự dốt nát của ông thầy đồ. Sự tin tưởng vào thần hậu thổ quá mức đã khiến cho chủ nhà vào kháng cự lại. không dừng lại ở đấy, ông thầy đồ lại tiếp diễn ngụy biện về các gì đã dạy học trò bằng lối giảng giải phách lác nhằm giấu dốt. Thầy đồ càng che chắn, càng lý sự thì sự dốt nát lại càng lộ ra.
Truyện phê phán thói giấu dốt một thói hư tật xấu rộng rãi trong nội bộ nhân dân. Từ xưa tới bây giờ, nghề dạy học là 1 nghề rất cao quý, được mọi người tôn trọng. Đổi lại, đã là một người thầy/ cô giáo thì cứ nhất mực kiến thức phải sâu rộng và hiểu đạo lí.
Truyện phê phán thực trạng diễn ra hàng ngày về sự giấu dốt như: học trò giấu dốt vì sợ thầy mắng, cán bộ giấu dốt… Cố giấu dốt để đề cao bản thân, để khoe mình là chuyên nghiệp nhưng việc khiến cho ấy lại tự hại chính mình rồi lại tự mình lật tẩy chính mình. Đây là một bài học mà dân gian để lại làm cho con người phải suy ngẫm.
Truyện “Tam đại con gà” rất ngắn gọn, vừa có thuộc tính giải trí và tính chất phê phán. Chỉ một chữ” kê” nhưng đã vẽ ra 1 bức tranh về nhân vật thầy đồ dốt nát lại thích khoe khoang. Phê duyệt việc phân tích tiếu lâm Tam đại con gà, thánh sư ta đã với lời nhắn nhủ, đề cập nhở đến các kẻ dốt nát lại thể diện hão đừng nên miêu tả. Đồng thời khuyên răn mọi người đừng giấu dốt, phải luôn học hỏi không dừng.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 6Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 7
Tam đại con gào là câu chuyện vừa mang tiếng cười trào phúng mà độc giả còn có một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, về những câu chuyện xưa. Nó một mặt tập trung vào lột tả những hành động ngược đời, là nguyên nhân gây ra tiếng cười nhưng cũng là cao trào của sự châm biếm , phê phán thói hư tật xấu, đặc biệt là cái dốt. Tam đại con gà cũng giống như những câu chuyện khác của thời xa xưa, vốn giản dị, lấy được tiếng cười nhưng còn lấy được cả sự chiêm nghiệm của con người về cuộc sống.
Với óc sáng tạo của nhân dân ta, kết hợp với những hành động những chi tiết đời thường đã tạo nên vô số những câu chuyện châm biếm rất sâu sắc. Hành động và chi tiết không tới nỗi kịch tích như các tác phẩm trào phúng, nhưng lại dễ dàng đi vào lòng người bởi lối ẩn dụ nhẹ nhàng và mang lại tiếng cười trào phúng cho độc giả.
Các tỉnh huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên cũng chính là khi tình huống cuối cùng khép lại. Nó vừa liên tiếp, vừa đẩy tình huống đặc sắc nhất đi tới cao trao. Với tình huống thứ nhất nhằm nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ.
Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì. Những ông thầy đồ thời xưa,biết một tí chữa,đã dám mang sách đi dạy học,tới khi học trò thông minh hỏi tới lại không biết để đáp lại như thế nào. Với một chi tiết nhỏ này thôi, cũng đã cho thấy học vấn và trình độ của thầy như thế nào rồi. Đặc biệt dạy cho con trẻ, trình độ như vậy mà không biết kê là gà thì quả thực đây là điều đáng buồn.
Chưa dừng lại đó, khi học trò hồn nhiên hỏi gấp, cố tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy đồ chẳng giữ được thể diện của mình trước đám học trò nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại.
Tình huống thứ hai là thầy sợ người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Điều này chứng tỏ rằng thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu đi cái dốt của mình. Không những là dốt mà cái đang chú ý ở đây là giấu dốt và lại làm việc đó trước sự ngây thơ của con trẻ. Nhưng tình huống cuối cùng khiến cho chúng ta phải bật ra tiếng cười nhất khi thầy cúng hỏi thổ công xem mình đoán chữ ấy có đúng không.
Đây giống như một tình huống gây cười và trào phúng châm biếm nhất, thầy đồ nhờ tới thần linh xem kiến thức của mình ra sao. Khi đã an tâm, thầy cho học trò đọc lớn lên, càng thấy buồn cười, bởi lẽ học trò thì k biết thầy sai mà thầy cũng k biết mình sai nên dốt lại càng dốt..
Nhưng bất ngờ chạm trán với chủ nhà, biết được cái sai của mình, không những không nhận mà còn tìm cách chối cãi và ngụy biện cho cái dốt của mình: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện “Tam đại con gà” là câu chuyện ngắn gọn xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ dốt nát cũng là một phần nhỏ trong thời xưa. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “chối quanh và tài ngụy biện” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa. Chi tiết nhẹ nhàng đơn giản nhưng lại khiến cho chúng ta có một cái nhìn sâu sắc không chỉ nhân vật mà cả những nét tính cách và thói hư tật xấu của một bộ phận nhỏ trong thời xưa.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 6
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 5Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 6
Truyện Tam đại con gà là một câu truyện hay và mang ỹ nghĩa phê phán sâu sắc. Phê phán thói dốt hay chơi chữ, dốt học làm sang của một bộ phận nhân dân, một tật xấu phổ biến và rút ra được nhiều bài học cho chính bản thân mình.
Mở đầu truyện, tình huống mâu thuẫn đã được bộc lộ, tức là cái cười đã được mai phục: “Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”. Ởanh học trò này chứa đựng mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, sự trống rỗng, dốt nát bên trong và sự khoe mẽ, lên mặt ta đây giỏi bề ngoài. Từ sự giới thiệu khái quát chung đó, câu chuyện đi vào những chi tiết cụ thể: anh được mời dạy trẻ vì người ta tưởng anh vãn hay chữ tốt thật.
Vì thực chất kém cỏi, dốt nát mà lại nhận đi làm thầy dạy chữ nên tất nhiên anh học trò dốt phải đối mặt với những tình huống khó xử. Nhân buổi dạy sách Tam thiên tự, có chữ “kê” là gà với nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống, nói liều “dủ dỉ là con dù dì”. Yếu tố hài hước là ở chỗ: thầy đi dạy chữ mà chữ tối thiểu cũng không biết, đã thế lại giấu dốt, dạy sai một cách liều lĩnh.
Do học trò hỏi gấp nên thầy cuống, nói liều chứ thầy cũng biết mình dốt nên bảo học trò đọc khẽ, “trong lòng vẫn thấp thỏm”. Chi tiết thầy khấn thổ công nhà chủ “xem chữ ấy có phải thật là dù dì không” và được thổ công “cho cả ba đài” là chi tiết dẫn dắt hợp lí, tạo cho kịch tính trong truyện tiếp tục phát triển. Trước khi khấn thổ công, thầy còn thấp thỏm, “bảo học trò đọc khẽ”.
Cách xử lí của thầy có phần thận trọng vì thực chất thầy biết được sự kém cỏi của mình nhưng lại muốn che giấu: “thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ”. Như vậy, ở tình huống khó xử này, thầy đồ đã tự bộc lộ cái dốt của mình. Chú ý cách kể chuyện rất sinh động, chính xác. Khấn thổ công xong, “thầy lấy làm đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc cho to”.
Tình huống tiếp theo là hệ quả tất yếu của tình huống thứ nhất. Dốt chữ mà đi dạy chữ, dạy chữ sai mà cứ tưởng là đúng, cho học trò đọc to (mâu thuẫn tăng thêm). Chi tiết bốđứa trẻ là người lao động cuốc đất ngoài vườn cũng biết chữ kê nghĩa là gà (thế mà thầy không biết) – tăng tính hài hước. Tác phẩm tự sự dân giankhông chú ý miêu tả tâm lí nhân vật nhưng truyện cười này đã dành một câu miêu tả ý nghĩ của thầy.
Thầy nghĩ thầm: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”. Chi tiết này có ý nghĩa quan trọng làm tiếng cười thêm phần thú vị, nhưng cũng để chuẩn bị cho cái đáng cười ở phần tiếp theo. Ý nghĩ ấy khẳng định rằng không phải thầy nghĩ mình đúng mà thực chất là biết mình sai.
Từ lời giới thiệu khái quát đầu truyện đến kết thúc truyện, anh học trò làm thầy dạy trẻ đã tự bộc lộ cái mâu thuẫn trái tự nhiên của mình. Theo lẽ tự nhiên, đi làm nghề thầy đồ là phải hay chữ thì anh ta lại dốt chữ. Nghề gì thì có thể kém chữ chứ chọn nghề thầy mà dốt chữ thì nực cười lắm thay! Truyện cười đã khai thác vào vấn đề bản chất nhất của mỗi đối tượng gây cười. Có thể so sánh với một số truyện cười khác như chuyện thầy lang chữa bệnh bốc thuốc nhầm làm người bệnh chết, thầy cúng không đọc đúng tên người cần cúng vì đọc nhầm sớ của nhà khác,…
Các thầy hành nghề vì miếng cơm manh áo mà không có đạo đức nghề nghiệp. Mâu thuẫn khác ở đây là dốt nhưng lại giấu dốt, luôn khoe mình văn hay chữ tốt. Từ mâu thuẫn đó, anh đồ dốt đã tự đưa mình vào những tình huống bất lợi và phải tự bộc lộ mình. Anh ta càng cố che giấu thì người nghe càng nhận thấy sự dốt nát nhưng liều lĩnh, bất chấp đúng sai của anh ta.
Đây là truyện cười trào phúng mang ý nghĩa phê phán cái xấu trong nội bộ nhân dân. Ở đời, dốt làm nghề gì cũng khổ, nhưng làm nghề thầy, dạy chữ cho người mà dốt thì vô cùng tai hại. Vả chăng, nếu biết mình dốt thì phải học hỏi cho tiến bộ chứ chỉ lo giấu dốt, che đậy cái dốt của mình thì anh ta luôn lâm vào tình thế bất lợi và chỉ trở thành trò cười cho thiên hạ.
Tuy nhiên tiếng cười ở đây không phải là tiếng cười đả kích nên vẫn làm cho người nghe cười vui vẻ và soi vào tấm gương đó để tự răn mình. Ý nghĩa tích cực của tiếng cười dân gian là ở chỗ đó.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 4Nhân vật chính trong truyện Tam đại con gà là anh học trò dốt đặc mà lại dám làm thầy đồ. Các nhân vật khác chỉ làm nền cho nhân vật chính hoạt động. Điểm độc đáo của truyện là tác giả dân gian tạo ra tình huống đặc biệt để nhân vật thầy đồ tự bộc lộ “trình độ” của mình.
Thông thường, cái dốt do thất học được mọi người dễ dàng thông cảm; còn cái dốt của học trò thì chỉ đáng chê trách, chứ không đáng cười. Người xưa nói: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”, nhưng anh học trò dốt lại đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt cả gan hơn, anh ta dám làm nghề “gõ đầu trẻ”, mà nghề này muốn dạy một thì phải biết mười. Thói xấu ấy của anh ta không dừng ở lời nói, mà đã thành hành động.
Truyện Tam đại con gà không hướng tiếng cười vào hành động “ngược đời” và liều lĩnh ấy, mặc dù nó là nguyên nhân gây ra tiếng cười. Cái bị phanh phui, phê phán chính là thói “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Các tình huống khó xử khác nhau trong truyện dẫn dắt người đọc đi từ bất ngờ hày tới bất ngờ khác và tiếng cười vang lên khi tình huống cuối cùng khép lại.
Tình huống thứ nhất nói về trình độ của thầy đồ. Giờ dạy học, thầy gặp chữ kê là gà nhưng thầy không nhận ra vì nó có nhiều nét rắc rối, gần giống với chữ tước là chim sẻ. Học trò lại hỏi gấp, thầy cuống lên đành nói liều: Dủ dỉ là con dù dì. Các tác giả dân gian cố tình để thầy bẽ mặt với chữ kê. Tuy có nhiều nét nhưng chữ này không khó. Sách Tam tự kinh dùng cho trẻ học vỡ lòng chữ Hán, phần giải nghĩa rõ ràng, lại có vần vè rất dễ thuộc, vậy mà thầy mù tịt.
Học trò hồn nhiên hỏi gấp, vố tình dồn thầy vào chỗ bí. Thầy sẽ chẳng còn giữ được cái oai của mình nếu không trả lời được. Đọc chữ kê thành dủ dỉ, rồi giảng bậy dủ dỉ là con dù dì quả là thầy đã đi đến chỗ tận cùng liều lĩnh và tận cùng của sự dốt nát thảm hại. Dủ dỉ đâu phải chữ Hán? Và trên đời làm gì có con vật nào tên là dủ dỉ, dù dì? Như vậy là thầy vừa dốt kiến thức sách vở, lại vừa dốt kiến thức thực tế. Người đọc đọc đến đây phải bật cười ngạc nhiên trước “trình độ” của ông thầy kì quặc này.
Tình huống thứ hai là thầy cũng khôn, sợ nhớ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khẽ. Thầy liều lĩnh khi dạy trẻ nhưng lại thận trọng trong việc giấu dốt, dùng cái láu cá vặt để gỡ và giấu nhẹm cái dốt của mình. Tạm thời, sự láu cá ấy cứu được thầy nhưng thực ra nó càng đẩy nhanh thầy vào ngõ cụt. Tình huống thứ ba là thầy khấn hỏi Thổ Công của gia chủ để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không.
Lẽ ra, không biết thì thầy phải tìm sách mà học, tìm người mà hỏi. Nhưng truyện không có cái lẽ ra ấy. Tình huống này làm cho mâu thuẫn phát triển lên tới điểm đỉnh. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc. Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt.
Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đổ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Tình huống thứ tư nằm ở phần kết thúc truyện. Khi thầy đồ bộc lộ đến tận cùng sự ngoan cố của thói giấu dốt thì cũng là lúc tiếng cười bật lên. Sự tin tưởng mù quáng vào thần thánh đã đưa thầy đến cuộc chạm trán bất ngờ với chủ nhà. Cái dốt nát của thầy đã bị lật tẩy. Lúc này, thầy đã tự nhận thức được sự dốt nát của mình và thầm trách Thổ Công: Mình đã dốt, Thổ Công nhà nó cũng dốt nữa.
Vốn “vụng chèo khéo chống”, thầy vẫn cố gượng gạo giấu dốt bằng cách giải nghĩa quanh quẩn rất buồn cười. Không ngờ chữ dủ dỉ vô nghĩa mà lại được thầy tìm ra lắm nghĩa đến thế (!). Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng CƯỜI trào phúng hả hê. Truyện khai thác cả vần điệu, cả yếu tố thứ bậc trong tam đại con gà mà chế giễu, chọc cười: Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà. Yếu tố bất ngờ nhất của truyện khép lại thì cũng là lúc tiếng cười phê phán vang lên không dứt.
Câu chuyện ngắn gọn chỉ xoay quanh một chữ kê nhưng đã vẽ ra được chân dung thảm hại của nhân vật thầy đồ có tính cách hẳn hoi. Đó là một con người “dốt lòi” nhưng lại hay “lên mặt vốn hay chữ tốt” và luôn cố tìm cách giấu dốt bằng thói ba hoa. Đặc điểm của truyện này là mâu thuẫn trái tự nhiên trong nhân vật chính được nói ra ngay từ đầu câu chuyện. Bản chất “dốt nát” của thầy đồ đã được khẳng định. Toàn bộ câu chuyện chứng minh cho định đề này.
Tuy nhiên, khi thể hiện bản chất của nhân vật thầy đồ, vấn đề có khác đi một chút. Thầy đồ dốt đến mức những chữ tối thiểu trong sách dùng để dạy cho trẻ con mà cũng không phân biệt nổi. Dốt nhưng lại tự cho là mình giỏi (sau khi khấn Thổ Công). Khi bị người khác chỉ ra cái dốt thì ngầm tự nhận là mình dốt nhưng vẫn tìm cách chống chế bằng được. Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chi là “lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thi sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường.
Truyện cười này cùng nhiều truyện cười khác đã lật tẩy thực chất của không ít hạng “thầy đồ dốt” trong xã hội phong kiến ngày xưa. Và tất nhiên, truyện không chỉ mua vui và phê phán thói giấu dốt của các thầy đồ mà nó còn nhắc nhở, cảnh tỉnh những ai không nhiều thì ít cũng mẳc phải căn bệnh ấy.
Truyện chứa đựng những bài học nhân sinh thâm thúy và bổ ích thông qua nghệ thuật gây cười bằng cử chỉ, lời nói, tình huống đáng cười và yếu tố bất ngờ được sử dụng rất đắc địa. Nội dung truyện cười này là biểu hiện sinh động của trí thông minh, tính lạc quan và tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động đối với những thói xấu trong xã hội để cuộc sống mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 4
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 3Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 4
Những câu truyện ngụ ngôn hẳn không còn xa lạ với bất cứ ai, sau tiếng cười giải trí là những bài học sâu cay nhằm phê phán, lên án những loại người trong xã hội. Nó được kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ với những cử chỉ hành vi tự nhiên của con người. Một trong số đó là truyện cười Tam đại con gà là một câu truyện khá thú vị mang tính bi hài, nhằm châm biếng thói học dốt còn hay nói chữ của một bộ phận người trong xã hội.
Cái dốt đáng xấu hổ nhưng nếu con người tự nhận thức ra được điều đó thì không đáng cười. Dân gian có câu “Biết thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe” nhằm khuyên người đời: biết thì nói, không biết thì im lặng mà nghe, có thế mới học hỏi được người khác. Vậy nên, một khi cái dốt đã được tự nhận thức thì nó sẽ không trở thành đối tượng trong truyện cười dân gian. Trái lại, trong truyện này anh học trò đã dốt nhưng “đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”.
Nhân vật chính bị chấm biếm trong Tam đại con gà là một anh học trò “dài lưng tốn vải”, học hành dốt nát những lúc nào cũng tỏ ra mình học rộng tài cao. Tuy nhiên, chính sự khoe khoang đó lại khiến nhiều người không biết và tin tưởng anh ta văn hay chữ tốt, mời về dạy dỗ con mình. Cũng từ đó, sự kém cỏi của anh ta dần bộc lộ một cách bi hài. Để phê phán một nhân cách thông qua tiếng cười, tác giả dân gian đã tạo cho người nghe tiếng cười liên tục bằng cách tạo nên một cấu trúc tầng bậc gồm nhiều chi tiết mâu thuẫn, đáng cười.
Thứ nhất, Là một thầy đồ đi dạy chữ, nhưng bản thân anh ta lại chưa nhận rõ mặt chữ. Khi học trò hỏi, anh ta luống cuống mà trả lời liều. Rõ là chữ “kê”, nhưng anh ta lại nói bừa “dủ dỉ là con dù dì”, trong khi trên đời vốn chẳng có con nào tên như thế. Có thể thấy, cái sự sốt nát của anh ta không chỉ ở tầm kiến thức hạn hẹp, không có chút tri thức sách vở, mà ngày các những kiến thức cơ bản trong xã hội cùng không nắm được. Thế mà anh ta lại dám ngang nhiên nhận lời đi dạy học cho người ta. Để rồi quá trình dạy học đã khiến bản chất mà anh ta luôn cố giấu kín hoàn toàn lộ rõ.
Nụ cười càng dâng cao khi thầy bảo trò đọc khẽ vì sợ người khác nghe thấy sẽ để lộ ra cái dốt của mình, làm người dạy học mà lại không biết chữ. Mánh khóe giấu dốt đầy láu cá của anh ta tạo nên tiếng cười giòn giã cho người đọc. Thứ hai: dốt sinh ra mê tín (khấn đài âm dương, Thổ công cho cả ba). Sự xuất hiện của nhân vật Thổ Công khiến nghệ thuật trào phúng và ý nghĩa phê phán của truyện càng thêm sâu sắc. Hóa ra, thánh thần cứ tưởng là thiêng liêng, nhưng thực chất cũng là kẻ dốt nát.
Sở dĩ nói như vậy là bởi khi thầy xin đài âm dương hỏi chữ đó có đúng là chữ “dù dì”, Thổ Công đã cho được cả 3 đài. Như vậy, Thổ Công cũng nhất trí với thầy đồ. Thế là cái dốt được bộc lộ hoàn toàn khi anh ta tự tin mình đúng, cho học trò gân cổ lên gào “Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì…”
Chủ nhà cuối cùng cũng phát hiện ra sự dốt nát của thầy đồ không biết mặt chữ. Nhưng anh ta vẫn không chịu thừa nhận cái dốt của mình mà trách Thổ Công “mình đã dốt nó còn dốt hơn”, rồi tìm mọi cách giải “oan”, nhưng mỗi câu chữ đều luẩn quẩn và nực cười.
Rõ ràng, anh “thầy đồ” này là kẻ dốt toàn diện. Khi không biết, dáng ra anh ta phải tra trong sách vở, đằng này lại làm việc ngược đời là hỏi Thổ Công. Đây là một chi tiết rất đắt giá của Truyện, thể hiện sự sáng tạo, nghệ thuật phát triển vấn đề. Những hành động phi lý của anh ta được nâng dần lên theo trình tự. Đây cũng là một thủ pháp đặc trưng trong truyện cười ngụ ngôn dân gian.
Bằng tiếng cười, truyện tập trung phê phán thói giấu đốt phổ biến ở nhiều đối tượng trong cuộc sống. Và thật buồn thay, hiện tượng dấu dốt hiện nay vẫn còn phổ biến nhiều trong giới trẻ. Nhiều người sợ người khác biết mình dốt, mình không hiểu biết. Thế nên, ngại nói, không dám nói. Đặc biệt, nhiều bạn học sinh còn cố tỏ ra mình hiểu biết, trong khi đó, không hiểu gì về bản chất thực sự của vấn đề. Truyện cười Tam đại con gà không chỉ có ý nghĩa đối với thời xưa, mà còn là một bài học cảnh tỉnh, nhắc nhở sâu sắc cho cả ngày hôm nay.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 2Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 3
Truyện cười là thể loại văn học dân gian kể về những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống nhằm tạo ra tiếng cười mua vui (truyện khôi hài) hoặc phê phán những thói hư, tật xấu trong xã hội (truyện trào phúng). “Tam đại con gà” là truyện cười thuộc thể loại truyện trào phúng, mượn tiếng cười để phê phán thầy đồ dốt nhưng lại hay khoe khoang hơm hĩnh. Tiếng cười tự bộc lộ qua lời nói của nhân vật thầy đồ, do đó lại càng hợm hĩnh và sâu cay.
Mở đầu truyện, tác giả dân gian giới thiệu nhân vật thầy đồ học hành dốt nát nhưng lại “xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Mâu thuẫn trái tự nhiên giữa dốt – giấu dốt được khắc họa qua các tình huống xuyên suốt câu chuyện, nhân vật càng gắng sức che đậy thì bản chất lại càng bộc lộ rõ nét. Trước tiên, đó là tình huống thầy đồ dốt đến một chữ tối thiểu trong sách cũng không biết. Khi gặp chữ “kê”, thầy không biết là chữ gì mà học trò lại hỏi gấp, thầy đã giải quyết bằng cách nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”.
Không chỉ xử lí bằng cách che đậy dặn học trò đọc khẽ, thầy còn không tra lại sách vở để có căn cứ xác đáng mà lại tin vào may rủi bằng cách gieo đồng tiền sấp ngửa. Khi được thần đồng ý, đắc chí vì thấy mình đúng, thầy đồ tự cho mình giỏi và cho học trò đọc to câu nói trên. Các hành động mê tín, thận trọng giữ sĩ diện hão của thầy đồ cho thấy sự dốt nát của một kẻ ngay cả đến chữ tối thiểu cũng không biết.
Thế nhưng, mâu thuẫn giữa dốt – giấu dốt được đẩy lên cao trào hơn bao giờ hết và bật thành tiếng cười trào phúng lại được thể hiện qua tình huống người cha của học trò chất vấn thầy đồ. Khi được hỏi “Chữ “kê” là gà, tại sao thầy lại dạy thành “dủ dỉ là con dù dì”, thầy đồ đã tự nhận thức được sự dốt nát của bản thân và ông thủ công: “mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa”.
Ấy vậy mà, thầy lại phản ứng bằng cách lí sự cùn, vòng vo: “Tôi dạy thế là dạy cho cháu biết đến tam đại con gà kia”. Đặc biệt, tiếng cười bật lên một cách giòn giã ở cuối truyện đã lật tẩy bản chất dốt nát của thầy đồ: “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà”.
Câu nói vừa phi logic vừa vô nghĩa ấy là lời chống chế yếu ớt không thể che đậy được khả năng dốt nát nhưng vẫn thích khoe mẽ văn hay chữ tốt của nhân vật. Từ đầu đến cuối, thầy đồ càng cố gắng giấu dốt bao nhiêu thì lại càng tự bóc trần sự ngu dốt của mình bấy nhiêu.
Qua việc xây dựng mâu thuẫn trong các tình huống kịch tính, cách giải quyết mâu thuẫn bất ngờ, truyện cười “Tam đại con gà” đã phê phán thói giấu dốt, đặc biệt là những người đã giấu dốt lại còn cố tỏ ra khoe khoang, hợm hĩnh. Đó là tật xấu vẫn còn tồn tại trong nhân dân.
Qua đó, tác giả dân gian gửi gắm lời khuyên tới tất cả mọi người, không nên giấu dốt mà phải không ngừng học hỏi, nên dựa vào nguồn tri thức trong sách vở và thực tiễn đời sống để hoàn thiện bản thân chứ không nên tin vào những điều mê tín, không có cơ sở. Đó là bài học đắt giá không chỉ trong quá khứ mà ngay cả trong thời hiện đại, tư tưởng ấy vẫn mang tính chất thời sự vĩnh hằng.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 1Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 2
Từ xưa cha ông ta đã sáng tác ra những câu truyện cười truyện ngụ ngôn mang tính chất giải trí và đồng thời cũng để phê phán chê bai một số loại người trong xã hội. Đó thường là những câu truyện dân gian ngắn có kết cấu chặt chẽ kết thúc bất ngờ kể về những sự việc hành vi tự nhiên của con người. Trong số đó truyện cười Tam đại con gà là một câu truyện khá phổ biến hướng đến sự châm biếm đả kích vào những kẻ “xấu hay làm tốt dốt hay nói chữ”. Cái xấu cái dốt càng che đậy càng dễ lộ ra kệch cỡm và đáng cười hơn rất nhiều lần.
Truyện Tam đại con gà châm biếm một anh học trò loại người “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”. Anh ta học hành dốt nát nhưng lại có tính khoe khoang đi đâu cũng ra vẻ cũng lên mặt “văn hay chữ tốt”. Nhưng vì không biết được bộ mặt thật của anh ta mà có nhiều người tưởng anh ta là hay chữ là học rộng tài cao mới mời anh ta về làm thầy dạy dỗ bọn trẻ. Và từ đó những câu chuyện bi hài liên tiếp xảy ra thể hiện tài năng kém cỏi của “ông thầy “nhưng lại luôn ra oai phản ánh một lớp người trong xã hội thời bấy giờ.
Mấu chốt của câu chuyện chính là ông thầy được mời về gõ đầu trẻ. Bi kịch đã bắt đầu từ đó và khiến ông thầy không thể xoay xở được. Bắt đầu là việc nhận biết mặt chữ. Thầy đồ đi dậy học trò nhưng “thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối quá học trò lại hỏi gấp, thầy cuống nói liều”. Thầy gặp chữ “kê” mà cũng không biết là chữ gì nên nói bừa “dủ dỉ là con dù dì”. Chữ kê là con gà mà thầy lại trả lời học trò là con dù dì. Vốn trên thế giới các loài động vật không hề có con nào như thế cả.
Ta thấy thầy đồ ở đây dốt tận cùng của cái dốt không những không hiểu biết gì về kiến thức căn bản trong sách vở mà thầy còn dốt ở cả những kiến thức đơn giản căn bản trong xã hội. Dốt nát là thế mà cũng có thể làm liều nhận lời dậy học. Ta thấy được anh học trò này hiện lên ngay từ những câu đầu tiên là một anh chàng dốt nát đến cực độ nhưng cái dốt trong anh luôn được giấu kín và khi đi dậy trẻ cái dốt ấy lại được thể hiện rõ nét.
Cái dốt của thầy càng được nâng cao khi mà thầy sợ mình dậy sai nên bảo trò đọc khẽ thôi không người khác nghe thấy lại chê bai nói thầy đi dậy mà không biết chữ. Đến dậy tiếng cười càng giòn giã hơn khi ta biết được cái giấu dốt của thầy rất đáng cười cười vì cái giấu dốt rất láu cá. Đây là sự giấu dốt mà ta đáng chê trách đáng phê bình. Nhân vật Thổ Công xuất hiện khiến cho ý nghĩa phê phán và nghệ thuật trào phúng của truyện càng sinh động, sâu sắc.
Như một mũi tên bắn trúng hai đích, truyện “khoèo” cả Thổ Công vào với thầy mà chế giễu. Té ra thần thánh tưởng là thiêng liêng mà cũng dốt. Cái dốt ấy thể hiện ở chi tiết thầy đồ xin ba đài âm dương, Thổ Công cho được cả ba. Như vậy là Thổ Công đồng ý với thầy đồ chữ ấy đúng là dù dì. Thế là thầy đồ vững bụng, không sợ nữa mà đắc chí lắm… bệ vệ ngồi trên giường, bảo trẻ đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ lên gào: Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì… Với chi tiết ấy, cái dốt của thầy đã được khuếch đại lên gấp nhiều lần.
Cái dốt cuối cùng cũng là phần kết thúc của câu chuyện khi mà thầy tin vào thổ công tin vào thần thánh nên tin tưởng chữ đó đúng là “dủ dỉ”. Vậy nên thầy đã bảo học trò đọc to, thế là đứa nào đứa đấy gào cổ lên mà đọc. Chủ nhà thấy thầy dậy cái gì mà lạ quá cho nên mới đến xem sự tình.Thế là thầy đồ đã bị lật tẩy là dốt nát không biết chữ gì cả. Lúc này thấy mới nhận sự dốt nát của mình và tiếng cười giòn giã hơn khi mà thầy thầm trách thổ công “mình đã dốt nó còn dốt hơn. Nhưng bản tính lại vốn dựng chèo khéo trống thế nên trước mặt nhà chủ cái sai rành rành cái dốt lộ thiên mà anh học trò vẫn còn cố cãi giải oan cho mình bằng cách giải nghĩa thật luẩn quẩn và buồn cười.
Cách chống chế của thầy nhằm mục đích giấu dốt và thầy vẫn ra vẻ ta đây hay chữ, trái ngược với sự tự nhận thức về mình lúc trước. Chính sự trái ngược này đã tạo ra tiếng cười trào phúng hả hê. Ta thấy ở đây anh học trò không biết chữ này thì phải hỏi người biết hoặc tìm trong sách vở. Vậy mà thầy lại đi hỏi thổ công đó là cách hỏi ngược đời trái tự nhiên và xưa nay chưa từng có. Chi tiết thầy xin ba đài âm dương để hỏi về chữ dủ dỉ dù dì là một sáng tạo của tác giả dân gian. Với nghệ thuật sáng tạo này tác giả dân gian đã đẩy câu chuyện lên một bước phát triển cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Như vậy ta thấy rằng ở đây tác giả dân gian cũng không nới thẳng ra vấn đề mà để nhân vật tự bộc lộ dần đó là cái dốt cái sĩ cái kênh kiệu đáng chê bai phê phán.
Ta thấy cái dốt của người học trò thì không đáng cười mà đáng cười ở đây là đã dốt lại còn ra vẻ sĩ diện hão huyền cái giấu dốt mới là cái dáng cười. Như vậy, mâu thuẫn trái tự nhiên ở đây là mẫu thuẫn giữa cái dốt và sự giấu dốt. Thầy càng ra sức che đậy thì bản chất dốt nát càng phơi bày và thầy tự biến mình thành trò cười cho thiên hạ.
Trong toàn bộ câu chuyện, cái dốt của thầy đồ bị lộ dần ra khi lâm vào các tình huống khó xử nhưng thầy đã cố che giấu một cách phi lí. Vì thế, thầy càng che giấu thì bản chất dốt nát càng bị phơi bày. Cuối cùng, thầy đành tìm một lối thoát phi lí hơn. Nhưng thầy càng “lấp liếm” thì càng trở nên thảm hại vì ai cũng biết rằng đó chỉ là “lí sự cùn” chứ không phải là một cách chống chế thông minh có thể chấp nhận được. Ở đây, ta thấy có sự tăng tiến về mức độ phi lí trong hành động và lời nói của thầy đồ. Đó cũng là một thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong truyện cười dân gian.
Tam đại con gà phê phán thói giấu dốt một tật xấu có thật và khá phổ biến trong nội bộ nhân dân. Ý nghĩa phê phán của truyện toát lên từ hành động tức cười của một anh thầy đồ “dốt đặc cán mai” mà lại cố tình giấu dốt, nhưng càng cố tình che giấu thì sự dốt nát lại càng lộ ra. Anh học trò dốt nát đến thế mà lại cả gan đi làm thầy dạy trẻ thì tác hại quả là khôn lường. Tác phẩm đã mở thêm đối tượng bị chê bai phê phán đó là cả ông thổ công cũng dốt. Và thầy đồ không những dốt về chữ mà còn dốt về phương pháp học hỏi. Việc đưa nhân vật thổ công vào trong truyện là chi tiết hư cấu không thật nhưng sự xuất hiện của nhân vệt thổ công khiến cho tác phẩm phát triển nhanh hơn mạnh hơn và độc đáo hơn.
Qua truyện Tam đại con gà nhân dân muốn phê phán chê bai một tật xấu trong nội bộ nhân dân phê phán những người không chịu học hỏi mà lúc nào cũng tự cho ta đây là tài giỏi mặc dù không biết gì. Câu chuyện phê phán cao những kẻ giấu dốt không dũng cảm đối diện với cái dốt để mình tốt hơn.
Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” số 1
Mỗi người đọc cần hiểu rằng bản chất của cái dốt không có gì đáng cười. Cái cười ở đây là cười kẻ dốt hay khoe chữ và nói chữ, còn đi dạy chữ cho trẻ. Vì vậy mỗi chúng ta cần khiêm tốn và không ngừng học hỏi để trở nên hoàn thiện hơn nữa.
Đăng bởi: Nguyễn Hải
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích truyện “Tam đại con gà” hay nhất
Phân Tích Bài Thơ Ai Dậy Sớm ❤️ 6+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Ai Dậy Sớm ❤️ 6+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Trau Dồi Kỹ Năng Viết Văn Hay Với Bài Mẫu Phân Tích Bài Thơ Ai Dậy Sớm Đặc Sắc.
SCR.VN đã biên soạn mẫu dàn ý phân tích bài thơ Ai dậy sớm ngắn gọn nhưng dễ hiểu ở bên dưới, gửi tặng quý vị đọc giả:
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Võ Quảng và tác phẩm Ai dậy sớm.
II. Thân bài:
– Bài thơ là bức tranh thiên nhiên vào buổi sáng sớm – một khoảnh khắc gợi lên sự trong trẻo, tinh nguyên và tươi mới.
– Thời gian trong bài thơ được nhắc đến là buổi sáng sớm – thời khắc chỉ xuất hiện một lần trong ngày. – Không gian trong bài từ sân nhà đến cánh đồng, đến đồi núi. Đây là không gian mở: từ hẹp đến rộng, từ gần đến xa, từ thấp đến cao..
– Hoạt động của con người cũng tăng dần và qua đó phần thưởng cũng lớn dần: Từ hương hoa đến ánh bình minh, đến cả đất trời…
– Điệp câu Ai dậy sớm được mở đầu ở tất cả cá khổ thơ như lời giục giã, gọi mời và cậu đang chờ đón cùng dấu chấm than! Như một lời hứa chắc chắn về phần thưởng dành cho người dậy sớm.
– Bài thơ với nhịp điệu nhanh, dồn dập, giọng điệu vui, tươi sáng cùng thể thg 3 chữ mang phong cách đồng dao, Kết thúc mỗi khổ thơ đều là vần trắc tạo sự vui tươi, chắc khỏe, điển hình phong cách thơ Võ Quảng.
III. Kết bài:
– Bài thơ giáo dục các em về ý nghĩa của việc dậy sớm.
Đôi khi giáo dục và chơi đùa hòa nhập làm một. Nội dung giáo dục ẩn trốn trong trò chơi và tự thân trò chơi định hướng cho các em vào các hoạt động xã hội. Ai dậy sớm là một bài thơ điển hình nhất cho cấu trúc tinh tế của thơ Võ Quảng:
Bài thơ chia làm ba khổ, nội dung xoay quanh việc đánh thức trẻ em. Dậy trưa là bản tính tự nhiên của trẻ con. Người lớn đánh thức trẻ con bằng quyền lực. Ít ai có cái khéo như Võ Quảng, biết lấy cái tự nhiên để kích thích một hoạt động tự nhiên. Dậy sớm là một cuộc chơi với bao điều thú vị đang chờ đón: Mùi hoa cau thơm ngát, màu ánh sáng vàng tươi và bao thứ tinh khôi khác của đất trời.
Bài thơ đẹp ở cấu trúc vừa trùng điệp vừa tăng cấp. Trùng điệp ở tiếng gọi của thời gian giục giã: “Ai dậy sớm”, ở tiếng chào mời vang lên thánh thót “Đang chờ đón”. Tăng cấp ở hành động từ chậm đến nhanh dần: “đi”, “bước”, “chạy”, mỗi nhịp vận động là một hơi thở sâu hơn, hít lấy khí trời, hương hoa trong trẻo. Tăng cấp ở không gian từ chật hẹp đến cõi mênh mông “nhà”, “đồng”, “đồi”, mỗi không gian là một tặng vật kì diệu của vũ trụ. Con người tuy nhỏ bé nhưng tự ý thức được sự sống của mình sẽ lớn lên ngang tầm với đất trời.
Đọc văn thơ Võ Quảng ta thấy cùng một lúc hiện thân cả hai con người của ông: Một em bé của một thời ngây thơ và một ông già hóm hỉnh biết tổ chức những cuộc chơi cho con trẻ. Hai con người này tự tương tác như hai tấm gương đối xứng: đứa trẻ ngưỡng vọng chuẩn mực của ông già để lớn lên và ông già soi vào đứa trẻ hồn nhiên trong trắng để thanh lọc hồn mình. Sáng tác của Võ Quảng từ truyện đến thơ luôn là một cuộc hòa giải vô tận như thế.
Võ Quảng viết về trẻ em ở cả hai mặt: tốt và chưa tốt. Nhưng cả hai mặt đều đáng yêu. Ông đã nhìn lại tuổi thơ bằng con mắt hóm hỉnh của người từng trải và bao dung. Điều mà các nhà giáo dục thường đẩy đến mức độ nghiêm trọng thì ông lại tỏ ra trân trọng. Vì lẽ, bản tính tự nhiên của trẻ em là sự hồn nhiên trong trẻo, mọi cái gọi là “hư hỏng” của trẻ con đều do tấm gương hoen ố của người lớn. Sự nghiêm trọng quá mức nào đó đối với trẻ em chỉ tự biến mình thành hài hước trong mắt con trẻ.
Võ Quảng có cả một tập thơ “Măng tre” với nghĩa ngụ ngôn: Măng lớn lên theo lẽ tự nhiên, vươn thẳng lên bầu trời cao rộng, nó chỉ lệch lạc khi môi trường xung quanh nó quá nhiều áp lực mà thôi!
Bài thơ Ai dậy sớm là một trong những sáng tác hay của nhà thơ Võ Quảng. Nó xoay quanh quanh một vấn đề rất đơn giản trong cuộc sống thường ngày chính là làm sao để đánh thức được bé. Điểm đặc biệt của bài thơ là nhà thơ đã mang cả thế giới cỏ cây hoa lá và loài vật gần gũi vào trong thơ. Nó chứa sự ngộ nghĩnh nhưng vẫn giữ được nét nhân văn cao.
Tiếp theo đó nhà thơ còn đưa buổi sáng với ánh bình minh lấp ló vào. Bên cạnh đó cũng chính là màu sáng của ánh sáng mặt trời sẽ cho bé cảm giác thích thú hơn. Cũng không những vậy mà ánh bình minh này còn che lấp đi bóng đêm và cái u tối của những giấc mơ lạ.
Để tiếp nối niềm vui tươi sáng, những câu thơ cuối cùng của bài thơ ai dậy sớm, chính là ước mơ và khát vọng của trẻ. Ở đây nhà thơ sử dụng động từ chạy để nhắc nhở các bé cần phải chạy đua với ước mơ của mình và không nên từ bỏ ước mơ ấy. Bởi nhà thơ muốn nhấn mạnh và hướng tới các em niềm vui tươi sáng khi những ước mơ thành hiện thực.
Ai dậy sớm là một trong những bài thơ vui tươi dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Nó sẽ là động lực để thôi thúc các em hành động chào đón những điều kỳ diệu của cuộc sống này. Không những vậy còn dạy bảo các em dậy sớm để đón hương hoa, bình minh và là cả đất trời mênh mông. Và cũng chỉ có những ai dậy sớm mới có được niềm vui ấy.
Nhà văn Võ Quảng là cây bút xuân sắc về văn học thiếu nhi. Ông có rất nhiều tác phẩm hay được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt và đưa vào giảng dạy tiếng việt tiểu học. Trong đó, tác phẩm “Ai dậy sớm” trong chương trình giảng dạy lớp 5 là một trong những tác phẩm tiêu biểu về văn chương của ông.
Phân tích bài thơ ai dậy sớm cho thấy đây là một tác phẩm có màu sắc vui tươi, âm nhạc rộn rã, dễ thuộc và rất hay. Tác phẩm cũng mang tính nhân văn cao, giúp con người sống vui vẻ, hạnh phúc tạo động lực để sống có giá trị hơn.
Mở đầu bài thơ tác giả đã mô phỏng một buổi sáng tinh khôi bằng những hình ảnh vô cùng đơn giản làm cho các bé thích thú:
Hình ảnh cau ra hoa mới đẹp làm sao. Đối với trẻ thơ, những hình ảnh càng rõ nét càng gợi hình thì càng gây được sự yêu mến và thích thú. Võ Quảng dường như rất hiểu trẻ em, thơ ông ngôn ngữ dung dị dễ thương, giàu hình ảnh có tính âm nhạc vui tươi, hoa lá cành bên trong. Vì vậy, một buổi sáng các em khi dậy sớm sẽ thấy vạn vật thay đổi theo chiều hướng tích cực. Gần gũi nhất chính là hoa cau.
Đêm qua, mới chỉ có nụ cau chúm chím, sau một đêm uống sương, hoa đã nở đẹp cả một góc vườn. Ta cảm nhận được không gian thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, giàu sức sống, màu xanh của lá, màu trắng của hoa cau và đọng những giọt sương mai tinh khiết. Khi dậy sớm, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng những biến đổi kì thú của thiên nhiên nhưng rất thuận tự nhiên.
Nếu như khổ thơ trên chỉ là từ nhà ra hiên ra vườn thì sang khổ thơ hai là tác giả dẫn dắt chúng ta ra cánh đồng. Đây là một không gian mở vô cùng rộng lớn, mênh mong. Vào sáng sớm, khi bình minh lấp ló, chúng ta cảm nhận được màu của “vừng đông” sáng bừng một góc trời. Ánh mặt trời sáng sớm còn mang màu nắng nhẹ sẽ tỏa xuống đồng ruộng tạo một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp.
Cách sử dụng hình ảnh thiên nhiên, mặt trời, đồng lúa mang lại cho khổ thơ đầy sức sống và cũng khiến cho các bé vô cùng thích thú. Không chỉ vậy, câu thơ dẫn dắt chúng ta về hiện tượng thiên nhiên, đó là sáng sớm sẽ đón ánh mặt trời vô cùng tươi đẹp. Nếu các bé dậy sớm mới có thể chứng kiến được khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời này.
Qua câu thơ cũng thấy được những khát vọng ước mơ của các bé. Tác giả muốn gửi gắm đến các bé, phải chạy đua cùng ước mơ của mình. Một đêm trôi qua rất nhanh, ánh bình minh sẽ sớm đến, các bé hãy dậy sớm cùng đón niềm vui với ánh mặt trời và cùng thực hiện ước mơ của mình.
Khổ thơ cuối, cả đất trời được nói đến với một không gian lớn nhất, tuyệt vời nhất. Chúng ta nhận thấy “Ai dậy sớm!” được nhắc lại rất nhiều lần. Chúng ta cũng từng nghe “ Muốn thành công thì phải dậy sớm”, vậy thì đây chính là lời thúc giục, động viên của tác giả đến mọi người, hãy dậy sớm. Dậy sớm để đón nhận những cái mới, để đến gần hơn với thành công. Nếu ở những khổ thơ đầu, dậy sớm là ngắm hoa, đến ngắm cánh đồng và cuối cùng thành quả là ngắm đất trời.
Không gian được nhân lên từ nhà ra đồng và đến núi rừng, trời đất cho thấy ước mơ đã chạm gần đến nơi và đạt được. Đứng trên đồi ngắm nhìn trời đất hay chính là chạm tay đến ước mơ. “Trên con đường thành công không có dấu chân của sự lười biếng” – quả đúng không sai.
Dậy sớm ở đây chỉ là một thói quen hàng ngày, được tác giả khích lệ nhưng ẩn chứa trong đó là lời nhắn nhủ, hãy chăm chỉ, chịu khó chúng ta sẽ đạt được ước mơ và thành công của mình. Đừng lười biếng, hãy dậy sớm để đón điều tuyệt vời của ngày mới, đón bình minh, đón hoa, đón nắng được ngắm nhìn đất trời và được chạy đua với ước mơ, chạm tay đến ước mơ.
Phân tích bài thơ ai dậy sớm cho thấy Tác giả đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên vô cùng gần gũi, tươi đẹp để vẽ lên một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc, có hoa có nắng có trời đất, không gian rộng lớn vô biên. Và những hình ảnh đó sẽ đi vào tâm trí các bé, giúp cho các bé có thêm động lực dậy sớm chào đón ngày mới với niềm vui, hạnh phúc và khích lệ các bé hãy theo đuổi ước mơ của mình, kiên trì như việc bé dậy sớm mỗi ngày.
Tham khảo văn 🌸 Phân Tích Nói Với Con Của Y Phương 🌸 ấn tượng!
Nhà thơ Võ Quảng viết bài thơ Ai dậy sớm với một giọng văn đầy hình ảnh nhạc điệu. Xoay quanh một vấn đề đơn giản nhất là đánh thức các bé. Nhà thơ đã vào bài thơ dành cho các em là cả thế giới cỏ cây, hoa lá, loài vật gần gũi mà lại rất ngộ nghĩnh song giá trị mô phạm cao mang tính nhân văn cao.
Mở đầu bài thơ tác giả đã dùng các hình ảnh có tính mô phỏng cao bằng những hình ảnh đơn giản làm cho các bé thêm thích thú:
Tác giả sử dụng hình ảnh cau ra hoa như muốn gợi thêm cho các bé sự chào đón nhiệt tình, không những vậy mà bằng mùi hương hoa lại tạo cho bé thêm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống mới này.
Tiếp theo ở đoạn thơ kế tiếp tác giả còn đưa buổi sáng bình minh lấp ló vào, bên cạnh đó là màu sáng của bầu trời tạo cho bé có cảm giác thích thú hơn. Không chỉ vậy mà bình minh này còn che lấp đi cái bóng đêm, cái u tối của những giấc mơ lạ.
Nói tiếp những cái niềm vui tươi sáng hơn qua những câu thơ cuối đây những ước mơ khát vọng của các bé. Tác giả sử dụng động từ chạy là muốn nhắn gửi đến các bé phải chạy đua cùng ước mơ của mình và không nên từ bỏ ước mơ đó . Tác giả ở đây muốn đưa các bé tới một niềm vui tươi sáng cùng nhưng điều ước nhỏ nhoi và thành hiện thực.
Bên cạnh đó tác giả còn muốn các bé dậy để chào đón những điều kỳ lạ của cuộc sống mới Không những vậy mà còn là phần thưởng của người dậy sớm, của em bé dậy sớm là hương hoa, là ánh bình minh, là cả đất trời mênh mông buổi sáng đang chờ đón em. Chỉ có những người dậy sớm, những người yêu cuộc sống và trân trọng đời sống mới có được điều ấy.
Tác giả đã dùng nhiều hình ảnh đẹp để tạo nên một bức tranh muôn màu hấp dẫn các bé. Và những hình ảnh đó về với tâm trí e tao cho bé thêm có động lực, sức sống mới với ngày mai tươi sáng.
Tuyển tập mẫu 🌸 Phân Tích Bài Thơ Những Cánh Buồm 🌸 nói về ước mơ của cha và con hay nhất!
Mời các bạn cùng xem bài văn mẫu phân tích bài thơ “Ai dậy sớm” của nhà thơ Võ Quảng ngắn gọn nhất!
Bài thơ “Ai dậy sớm” là một trong những sáng tác hay của nhà thơ Võ Quảng. Nó xoay quanh một vấn đề rất đơn giản trong cuộc sống hàng ngày, đó là làm thế nào để đánh thức em bé. điểm đặc sắc của bài thơ là nhà thơ đã đưa vào bài thơ cả thế giới cỏ cây, hoa lá, muôn vật. chứa đựng sự hài hước nhưng vẫn giữ được tính nhân văn cao cả.
Sau đó, nhà thơ cũng mang đến buổi sáng bằng ánh bình minh. Ngoài ra, chính màu sắc tươi tắn của ánh nắng sẽ khiến bé thích thú hơn. Không chỉ vậy, cảnh bình minh này còn bao trùm bóng tối và bóng tối của những giấc mơ kỳ lạ.
Để tiếp nối niềm vui rực rỡ, những dòng cuối của bài thơ “ai dậy sớm” là ước mơ và khát vọng của các em nhỏ. Ở đây nhà thơ dùng động từ chạy để nhắc nhở các em hãy chạy với ước mơ của mình và không được bỏ cuộc. Vì nhà thơ muốn nhấn mạnh và hướng đến cho trẻ em niềm vui tươi sáng khi ước mơ thành hiện thực.
Ai dậy sớm là một trong những bài thơ hay dành cho thiếu nhi. Đó sẽ là động lực thúc đẩy họ hành động để chào đón những điều kỳ diệu của cuộc sống này. Không chỉ vậy, họ còn dạy trẻ dậy sớm để đón hương hoa, bình minh và cả đất trời bao la. Và chỉ những ai dậy sớm mới có được niềm vui đó.
Mỗi sáng trở dậy, ta thấy buổi sáng chẳng khác lạ gì mấy. Nhưng thử đọc bài thơ ” Ai dậy sớm” của nhà thơ Võ Quảng mà xem, bạn sẽ thấy buổi sáng thật tuyệt vời.
Toàn bài thơ có ba cảnh. Thứ nhất là cảnh gần ngay trước cửa: “Bước ra nhà/ Cau ra hoa…”, thứ hai là cảnh xa hơn – phía cánh đồng: “Đi ra đồng/Cá vừng đông…” và thứ ba là cảnh xa – ở hướng khác – trên đồi: “Chạy lên đồi/ Cả đất trời…”. Điều thú vị trong cách tả của nhà thơ còn nằm ở cách chọn dùng ba động từ ở ba khổ thơ: “bước” – “đi” – “chạy”…
Nhà thơ đã tạo nên bức tranh buổi sớm không chỉ gói gọn trong không gian căn nhà. Buổi sáng dậy sớm, mình bước ra… bao la mới cảm nhận hết sự trong lành của cảnh vật. Hãy tưởng tượng ta bước ra và một không gian thật mênh mông rộng lớn hiện ra trước mắt. Đó là phần thưởng cho “Ai dậy sớm”.
Trọn bộ 🌸 Nghị Luận Cảm Ơn Đời Mỗi Sớm Mai Thức Dậy Ta Có Thêm Ngày Nữa Để Yêu Thương 🌸 chi tiết!
Cập nhật thông tin chi tiết về Con Mèo Mà Trèo Cây Cau ❤️️Phân Tích Bài Đồng Dao A trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!