Bạn đang xem bài viết Bài Thơ Việt Bắc In Trong Tập Việt Bắc, Tố Hữu được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc I. Đôi nét về Tố Hữu 1. Vài nét về tiểu sử– Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành.
– Quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
– Thân sinh là một nhà nho nghèo, bà mẹ cũng là con một nhà nho, cả hai người đã truyền cho con tình yêu tha thiết với văn học dân gian.
– Năm 12 tuổi, mồ côi mẹ. Sau đó một năm vào học tại trường Quốc học Huế, tham gia phong trào đấu tranh cách mạng.
– Bước vào tuổi thiếu niên, ông tham gia phong trào cách mạng và trở thành người lãnh đạo chủ chốt của Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế.
– Cuối tháng 4 năm 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa Thiên.
– Tháng 3 năm 1942: ông vượt ngục ra Thanh Hoá tiếp tục hoạt động.
– Cách mạng tháng Tám 1945: Ông là Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa Huế.
– Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông ra Thanh Hoá, lên Việt Bắc công tác ở cơ quan Trung ương Đảng, phụ trách văn hoá văn nghệ.
– Tố Hữu cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
– Ông là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Đồng thời ông cũng là một cán bộ cách mạng lão thành của Việt Nam.
– Năm 1996: Được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. Đường cách mạng, đường thơ– Tố Hữu là một trong những lá cờ đấu của nền văn nghệ Cách mạng Việt Nam.
– Các chặng đường thơ của Tố Hữu luôn gắn bó và phản ánh chân thật chặng đường cách mạng đầy gian khổ hy sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc, đồng thời cũng là những chặng đường vận động trong quan điểm tư tưởng và bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ.
– Các chặng đường thơ:
Từ ấy (1937 – 1946): chặng đường đầu tiên của thơ Tố Hữu, đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo ngọn cờ cách mạng và gồm ba phần Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng.
Việt Bắc (1947 – 1954): là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến.
Gió lộng (1955 – 1961): dạt dào những nguồn cảm hứng lớn lao.
Ra trận (1962 – 1971); Máu và hoa (1972 – 1977): am vang khí thế quyết liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước và niềm vui chiến thắng.
Một tiếng đờn (1978 -1992), Ta với ta (1992 – 1999): hai tập thơ đánh dấu chuyển biến mới trong thơ Tố Hữu, dòng chảy sôi động của cuộc sống thường nhật với niềm vui, nỗi buồn, được mất, sướng khổ…
3. Phong cách thơ Tố Hữua. Về nội dung, thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc.
– Thơ Tố Hữu hướng đến lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc. Thơ Tố Hữu không đi sâu vào tình cảm riêng, mà tập trung thể hiện những tính cảm lớn, mang tính tiêu biểu, phổ biến của con người cách mạng: tình yêu lí tưởng (Từ ấy), tình quân dân (Cá nước), tình cảm quốc tế vô sản (Em bé Triều Tiên).
– Thơ Tố Hữu mang tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến vấn đề có ý nghĩa lịch sử và tính chất toàn dân: Cảnh xây dựng đất nước thật vĩ đại (Bài ca mùa xuân năm 1961), cảnh cả nước lên đường ra trận (Chào xuân 67)…
b. Về nghệ thuật, trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà.
– Thể thơ: Đặc biệt thành công trong việc sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc. Những bài thơ lục bát như Khi con tú hú, Việt Bắc, Bầm ơi…; Những bài thơ theo thể thất ngôn như Quê mẹ, Mẹ Tơm, Bác ơi!…
– Ngôn ngữ: không chỉ chú ý sáng tạo những từ mới, cách diễn đạt mới mà thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt thơ Tố Hữu phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt.
II. Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc 1. Hoàn cảnh sáng tác– Chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi. Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào xây dựng một cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra.
– Tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện có tính lịch sử này, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ.
– Bài thơ có 2 phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.
2. Bố cụcGồm 3 phần:
Phần 1: 8 câu thơ đầu: Khung cảnh chia tay đầy lưu luyến.
Phần 2. Từ “Mình đi có nhớ những ngày” đến “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”: Lời của người ở lại.
Phần 3. Còn lại: Lời của người ra đi.
3. Ý nghĩa nhan đề– Trước hết, Việt Bắc là tên một địa danh cách mạng. Nơi đây được biết đến là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan đầu não của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
– Đồng thời, Việt Bắc cũng là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.
4. Nội dungViệt Bắc là khúc hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
5. Nghệ thuật
Thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp giao duyên.
Ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian, giọng điệu thiết tha sâu lắng…
III. Dàn ý phân tích Việt Bắc(1). Mở bài
– Giới thiệu khái quát về nhà thơ Tố Hữu, bài thơ Việt Bắc.
– Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
(2). Thân bài
a. Khung cảnh chia tay
* Lời của người ở lại:
– Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó mười lăm năm nghĩa tình. Câu hỏi tu từ mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.
* Lời của người ra đi:
– Khung cảnh chia tay: Ở một bến sông, có tiếng hát làm nền. Nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời.
– Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
– “Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân thành, sâu nặng của người Việt Bắc.
– Nhớ lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu:
“Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
“Những mây cùng mù”: biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề, gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
“Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.
b. Nỗi nhớ của người ra đi
– “Ta với mình, mình với ta… Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”: Khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.
– Nỗi nhớ của người ra đi được so sánh với nỗi nhớ người yêu: Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.
– Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên: nhớ về trăng vào những buổi chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre, các địa danh quen thuộc như Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…
– Nhớ về con người Việt Bắc: cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét, kỉ niệm ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động…
c. Bức tranh tứ bình
– Hai câu thơ đầu tiên:
“Hoa và người”: nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thể
Đại từ nhân xưng “mình – ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở
Điệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá khứ.
– Bức tranh mùa đông
Sử dụng bút pháp chấm phá cổ điển, gợi chứ không tả, màu xanh thẫm của núi rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt.
Màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh thẳm của núi rừng đã phần nào xua tan cái lạnh lẽo thay vào đó là chút cảm giác ấm áp, mang đến hình ảnh Tây Bắc tươi đẹp chứ không quá khắc nghiệt, nhằm cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
Advertisement
Hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
– Bức tranh mùa xuân
Sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng.
Hình ảnh con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù.
– Bức tranh mùa hạ
Mùa hè hiện ra thông qua sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve, khiến bức tranh thiên nhiên trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ.
Từ “đổ” gợi ra sự chuyển mùa nhanh chóng và đồng loạt của núi rừng Tây Bắc.
Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu đối với con người Việt Bắc.
– Bức tranh mùa thu
Hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung.
Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.
d. Khung cảnh ra trận
– Bút pháp sử thi tác giả khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra trận.
Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.
Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.
– Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh: cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai.
Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân để tiếp thêm động lực chiến đấu
Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng. đầu súng gợi cảnh chiến tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.
– Hình ảnh đoàn dân công
Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.
Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
– Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu:
Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng
Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng
(3). Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (2 Dàn Ý + 10 Mẫu) Phân Tích Khổ 4 Bài Việt Bắc
I. Mở bài
– Việt Bắc là tập thơ xuất sắc của Tố Hữu nằm trong tập thơ Việt Bắc, sáng tác trong giai đoạn 1946 – 1954.
– Bằng lối đối đáp và cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc của ca dao, bài thơ như một bài hát giao duyên thể hiện ân tình sâu đậm giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến về xuôi.
– Đoạn thơ này là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi đáp lại lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Trong đoạn thơ, ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ người đi thật đẹp và cũng thật tình nghĩa. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha và sâu đậm, bao phủ cả không gian, thời gian và đầy ắp tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.
II. Thân bài
1. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:
– Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình có nhớ mình”…). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.
– “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hoà, ta với mình là một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.
– Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.
+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.
+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.
2. Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:
– Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:
+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.
+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm:
“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.
Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.
+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế:
(Chế Lan Viên)
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dày lên biết bao nỗi vấn vương thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:
3. Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:
– Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
III. Kết bài
– Đoạn thơ là tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến về xuôi đối cảnh vật và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật gần gũi thân thương và thật đẹp; con người Việt Bắc tuy đời sống thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy tình nghĩa.
– Thể thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh được lấy ra từ đời sống thực tế, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần góp phần thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành tha thiết, vừa mênh mông bất tận của người cán bộ về xuôi đối với Việt Bắc, tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc
1. Mở bài
– Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc
– Khái quát nội dung khổ thơ thứ 4
2. Thân bài
– Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta” làm cho lời thơ trở nên tha thiết, ngọt ngào.
– “Ta với mình, mình với ta” câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.
– Tình cảm thủy chung, trước sau như một “sau trước mặn mà đinh ninh”
– Cách so sánh độc đáo “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”:
“Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, lúc nào cũng dồi dào, không bao giờ vơi cạn
Tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay.
– “như nhớ người yêu” cụ thể hóa nỗi nhớ: tha thiết, trào dâng, luôn thường trực.
– Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” mở ra bức tranh đẹp của núi rừng và nỗi nhớ thường trực ngày đêm trong trái tim người cách mạng.
– Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:
Nhớ về tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê
Nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ chia sẻ những “đắng cay ngọt bùi”
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.
Việt Bắc là bản anh hùng ca mạnh mẽ, hào hùng cũng là khúc tình ca ngọt ngào, tha thiết về tình nghĩa quân dân trong kháng chiến. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 4, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện đầy xúc động tình cảm gắn bó, nghĩa tình thủy chung, son sắc giữa giữa người ra đi và người ở lại ; những người chiến sĩ cách mạng với con người, vùng đất chiến khu.
Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta”, nhà thơ Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt người đọc không khí lưu luyến, bịn rịn của buổi chia ly mà còn mang đến âm hưởng ngọt ngào, tha thiết tựa như một lời tâm tình:
“Ta với mình, mình với ta” tuy hai nhưng là một, câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại. Câu thơ cũng là lời hồi đáp chắc chắn nhất về tình cảm của người ta đi “sau trước mặn mà đinh ninh”. Những tình cảm gắn bó đã có với con người và vùng đất chiến khu sẽ mãi vẹn nguyên, sống động trong trái tim, tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng, trước đây như thế nào thì sau này cũng sẽ như vậy. Cách so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã bộc lộ trọn vẹn tấm lòng, tình cảm của người ra đi. “Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, bởi vậy mà lúc nào cũng dồi dào, mạnh mẽ, không bao giờ vơi cạn, nó cũng giống như tình cảm của người cách mạng, luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay. Cách so sánh tự nhiên, mộc mạc nhưng lại thành công khơi dậy những tình cảm ấm áp, chân thành của người ở lại.
Trong những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu tiếp tục giãi bày nỗi nhớ, tình thương thông qua những câu thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh. Nỗi nhớ vốn vô hình, khó diễn tả bằng lời lại được nhà thơ cụ thể hóa qua một cảm xúc cụ thể “như nhớ người yêu”. Cách so sánh độc đáo, dễ gợi những liên tưởng đã thể hiện được tình cảm tha thiết, trào dâng trong lòng mỗi người chiến sĩ khi chia tay con người, vùng đất chiến khu để trở về xuôi. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” không chỉ mở ra bức tranh đẹp của núi rừng Việt Bắc mà còn khéo léo diễn tả nỗi nhớ luôn sục sôi, thường trực ngày đêm, bao trùm cả không gian và thời gian.
Rời xa Việt Bắc, nhưng những hình ảnh thân quen của cuộc sống, con người vẫn đong đầy nơi trái tim của những người chiến sĩ trẻ. Đó là những làn khói bảng lảng, là không gian mờ sương của núi rừng, là hơi ấm bếp lửa, là hình ảnh người thương “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Nỗi nhớ còn được cụ thể qua những hình ảnh, địa danh quen thuộc: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…Tính từ “vơi đầy” trong câu thơ “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” được sử dụng rất khéo, nó không chỉ gợi ra cái cáu đong đầy của nước nơi sông suối mà còn là cái đong đầy của tình cảm trong tâm hồn của người ra đi.
Trở về miền xuôi, những người chiến sĩ không nhớ về hình ảnh quen thuộc của núi rừng, người thương Việt Bắc mà còn mang theo cả những kỉ niệm gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất. “Đắng cay ngọt bùi” là những gian khổ, vất vả mà những người chiến sĩ đã cùng con người Việt Bắc trải qua. Tình cảm được khẳng định trong hoàn cảnh gian khó càng trở nên ý nghĩa hơn cả vì trong hoạn nạn mới thấy chân tình.
Sử dụng thể thơ lục bát đậm chất dân tộc kết hợp với lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến bức tranh đầy màu sắc về những ân tình thủy chung của người ra đi và người ở lại. Đó là những nghĩa tình được tạo dựng bởi sự chân thành, gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất của cả dân tộc, bởi vậy dẫu có chia xa về địa lí, khoảng cách thì tình cảm của người ra đi vẫn luôn cháy bỏng, trước sau như một.
Tố Hữu đã dành hết tình cảm của mình lên bài thơ Việt Bắc, những xúc cảm sâu sắc về hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng, họ gắn bó, nghẹn ngào nơi chiến trường xa xăm, nơi vùng núi Việt Bắc, nhưng tâm hồn của họ vẫn mang những nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ của sự thủy chung son sắt, cả bài thơ là nỗi nhớ và tấm lòng son sắt của những người chiến sĩ cách mạng.
Tấm lòng thủy chung son sắt thể hiện sâu sắc qua từng lời thơ của Tố Hữu với cách xây dựng hình tượng độc đáo, nỗi nhớ đang dần dâng trào trong từng lời thơ của tác giả, với biết bao nhiêu cảm xúc đó, nỗi nhớ dường như đang chế ngự toàn không gian trong tác phẩm. Tấm lòng của những người chiến sĩ trước sau như một, vẫn luôn giữ tấm lòng thủy chung, son sắt, mặn lòng trước khung cảnh của quê hương vùng núi Việt Bắc, tấm lòng đó thể hiện qua tình nghĩa, những nỗi nhớ da diết về khung cảnh, quê hương nơi đây:
Ta với mình, mình với ta, ở đây nó như hòa chung để nói một chỉnh thể, chỉnh thể đó nghẹn ngào, có tấm lòng trước sau như một, tấm lòng son sắt, mình đi nhưng mình lại mình lại nhớ mình, nguồn có bao nhiêu nước thì bấy nhiêu tấm lòng thủy chung, của con người…. Nỗi nhớ đó thể hiện cảm xúc chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, hình ảnh mang những cảm xúc, dâng trào, nỗi nhớ cho con người, người đọc như đang hình dung, tưởng tượng những cảm xúc, những nghĩa tình và kỉ niệm gắn bó với những gì đã xa xôi, nơi đây tất cả giờ chỉ là kỉ niệm.
Tác giả còn so sánh tấm lòng thủy chung đó như nước trong nguồn, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… tất cả đang dần hòa trộn trong tâm hồn của những người chiến sĩ, tình cảm, tấm lòng đó son sắt, to lớn, mang đậm trong tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng.
Nỗi nhớ đó da diết được tác giả so sánh với nỗi nhớ người yêu, nó cồn cào, da diết, cháy bỏng trong tâm hồn của những người chiến sĩ, cảm xúc đó nghẹn ngào, mang đến cho người đọc biết bao nhiêu khát khao, cảm xúc trước nỗi nhớ, nghĩa tình, sâu lắng của những người chiến sĩ cách mạng, đang ngày đêm mong nhớ vùng đất mà từng gắn bó máu thịt, nơi nung nấu những tâm hồn cách mạng, thể hiện được tâm hồn của những người chiến sĩ, hết mình vì quê hương, hết mình vì sự nghiệp của đất nước:
Nỗi nhớ đó thể hiện qua nhiều hình ảnh, dòng sông mang nặng nghĩa tình, biết bao nhiêu hình ảnh về quê hương, đất nước, sớm khuya bên bếp lửa, mong đợi người thương đi về, hình ảnh rừng nứa, bờ tre tất cả đang thể hiện những cảnh vật gần gũi của những người chiến sĩ cách mạng, một thời đã từng gắn bó toàn tâm, toàn lực của mình với vùng đất nơi đây, tất cả đang hòa chung vào tâm hồn, của những người chiến sĩ, của cách mạng, của những năm tháng đã qua.
Những cảm xúc đó thể hiện cảm xúc dâng trào, với nỗi nhớ đó, sự ngọt bùi, đắng cay, cùng nhau chia sẻ, nhớ những năm tháng dày sương, gắn bó như máu thịt, biết bao đắng cay muôn phần đều có thể hoàn thành, nỗi nhớ về vùng đất quê hương, nơi ta đã từng gắn bó, thiết tha, cảm xúc về một miền nỗi nhớ quê hương, cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn của người lính.
Đoạn thơ đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắt của những người lính cách mạng, luôn hết mình vì dân tộc, nỗi nhớ đang dâng trào trong từng khoảnh khắc, nỗi nhớ, trào dâng trong tâm hồn của những người lính.
Chế Lan Viên đã từng khẳng định Thơ cần có hình cho người ta thấy có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim. bắt rễ sâu xa từ hiện thực đời sống chính trị tưởng như không hề lãng mạn, chất thơ bay bổng trong tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. đoạn trích Việt Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi.
Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở lại mình ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ ta mình hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:
Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.
Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.
Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.
Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:
Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.
Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.
Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.
Những năm tháng hào hùng của dân tộc đã được thơ ca văn học Cách mạng ghi lại trong những trang văn, trang thơ. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu là khúc ân tình thủy chung của đồng bào kháng chiến và chiến sĩ. Nổi bật là khổ bốn – đoạn thơ là nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến:
Năm 1954, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ và bộ đội rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Trong không gian đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn trích đã miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và người dân Việt Bắc gợi lại cuộc kháng chiến anh hùng mà đầy nghĩa tình. Đó là một cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến, đầy nghĩa tình sâu đậm.
Đáp lại tình cảm của người ra đi, người ở lại cũng của người cán bộ về xuôi bày tỏ nỗi lòng của mình với người Việt Bắc. Dù xa nhưng người chiến sĩ vẫn luôn một dạ một lòng thủy chung hướng về Việt Bắc:
“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người ở lại và người ra đi: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Việc sử dụng hình ảnh so sánh: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” là một hình ảnh đặc sắc. “Nguồn” là nơi bắt đầu của một dòng sông, con suối vì thế lúc nào cũng tràn đầy, ở đây được so sánh với “nghĩa tình” đã cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất chứa ko bao giờ cạn hao đi. Tiếp đến, “nhớ gì như nhớ người yêu” tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo so sánh nỗi nhớ của người chiến sĩ với nỗi nhớ “người yêu” một tình cảm cháy bỏng rạo rực luôn dâng trào.
Người chiến sĩ nhớ về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Bắc nấu bữa tối, khói từ các ống bếp bốc ra nghi ngút. Rồi đêm tới lại bập bùng bên bếp lửa cháy rực cùng nhau quây quần kể chuyện, múa hát. Họ nhớ về:
Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, “suối Lê” ở đây chính là suối Lê Nin. Cuối cùng, đoạn thơ khép lại trở về với cách xưng hô mình và ta:
“Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian khổ vất vả. “Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc sử dụng sáng tạo hài đại từ “mình – ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca. Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà. Cả bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc.Các câu thơ đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… Bài thơ cho chúng ta thấy nghĩa tình của người dân Việt trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Đoạn thơ đã khép lại nhưng lại để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc… Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút ngặt nghèo, từ đó cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. Ở đó, những nỗi niềm sâu kín của trái tim mỗi thi nhân được thể hiện một cách độc đáo. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp nỗi nhớ niềm thương da diết của nhà thơ Tố Hữu gửi gắm tới quê hương cách mạng trong khổ bốn trích trong bài thơ “Việt Bắc”.
Năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết mở ra trang sử mới của cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương Đảng dời quê hương cách mạng Việt Bắc – nơi cưu mang, che chở họ trong những năm kháng chiến để trở về xuôi tiếp quản thủ đô. Bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi là chất xúc tác chắp đôi cánh cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ. Giữa những năm tháng kháng chiến khói lửa, văn học trở thành vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng tiếng thơ Tố Hữu không giáo điều, đoạn thơ thấm đẫm nỗi nhớ người ở lại được gợi nhắc bởi người ra đi.
Thể thơ lục bát mềm mại, giọng điệu thiết tha, tâm tình cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc thường đi về trong những câu hát giao duyên trong buổi tình tự, hẹn hò, trai gái mở hội lòng gợi bầu không gian đậm chất trữ tình. Cụm từ “mình – ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị. Ân nghĩa sâu nặng của đồng bào miền núi – cưu mang, che chở các chiến sĩ suốt mười lăm năm, được khẳng định như lời thề son sắt, mãi vẹn nguyên “đinh ninh, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.
Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ thương khôn nguôi đậm tô tình đồng chí, nghĩa đồng bào tạo nhịp chảy xuyên suốt dòng kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đậm hơi thở dân gian:
Nhà thơ mượn tình yêu đôi lứa thân thiết, đằm thắm để nói tình đồng đội với nhân dân một cách tự nhiên, thấm thía. Không gian người cất bước nhớ tới đều thấp thoáng hình bóng của người ở lại, bao trùm đồi núi, lưng nương, khoảng thời gian khi trăng lên, lúc chiều xuống. Nơi đây đất đã hóa tâm hồn người đi xuôi. Hình ảnh luyến lưu người ra đi còn là bản làng, sương, khói – cuộc sống êm đềm, mộng thơ của chốn núi non xa xôi:
Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ, sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu. “Người thương” vừa có thể là chiến sĩ, đồng bào cùng lý tưởng, có thể là người mẹ, cô em gái… hình tượng gợi nhiều chiều liên tưởng, mà không khô khan. Tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê” – đó là những không gian vĩnh hằng, vơi đầy con nước như nỗi lòng đong đầy của người đi và kẻ ở những ngày tháng đậm nghĩa tình cùng trải qua bao đắng cay, ngọt bùi. Chính gian khổ đã trở thành chất lửa thử vàng để tình nghĩa quân dân cá nước thêm gắn bó, bền chặt, vượt lên mọi rào cản khoảng cách và thời gian để “ta” đi ta nhớ, “mình” ở mình chẳng thể quên. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Bên cạnh những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.
Nhà thơ dụng công khắc họa nỗi nhớ niềm thương của cán bộ miền xuôi tới đồng bào miền núi, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ rung động vào lòng người. Bài thơ “Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kỳ gian khó mà huy hoàng của dân tộc.
Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim”. Và tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời. Bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu – một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.
Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi:
Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự của người ở lại, người ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ “ta – mình” hòa quyện quấn quýt với tấm lòng thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” nghĩa là không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Tiếp đến, câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:
Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.
Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.
Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm hai nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.
Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:
Trên phông nền thiên nhiên, Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.
Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.
Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.
Nỗi nhớ xưa nay luôn là một niềm cảm hứng, một hình ảnh nghệ thuật khơi gợi niềm thi hứng trong tâm hồn biết bao nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ thiết tha trong “Tương tư chiều” của Xuân Diệu hay nỗi nhớ “chín nhớ mười mong” trong thơ Nguyễn Bính. Đi vào thơ ca, nỗi nhớ mang rất nhiều sắc thái. Và ta cũng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong bài thơ “Việt Bắc” một nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy rất riêng, rất đậm sâu, một nỗi nhớ đã được nhà thơ gửi gắm qua từng hình ảnh, ý thơ trong đoạn thơ thứ tư của bài.
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ ca Cách mạng dân tộc. Là một nhà thơ tâm huyết với vốn tài sản văn chương phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã từng phát biểu về quan niệm của mình rằng: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng, xác định thật rõ tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân… Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Đọc “Việt Bắc” ông viết năm 1954, ta cảm thấu rõ tư tưởng đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, khổ thơ thứ tư nhà thơ thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người ra đi đối với mảnh đất, con người Tây Bắc với biết bao kỷ niệm được coi là một đoạn thơ đặc sắc, được nhiều người quan tâm.
Những câu thơ trong đoạn bốn là lời nhớ thương tha thiết của người ở lại:
Những ý thơ tiếp theo nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra địa chỉ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ dung da diết, dạt dào ấy trở về với một không gian, khoảnh khắc thời gian thơ mộng, trữ tình. Tựa hồ đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng nương, phảng phất một không gian hò hẹn của lứa đôi. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. Bếp lửa, hình ảnh ấy đã gợi ra khung cảnh của một mái ấm nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê”, đó là một loạt các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Không chỉ có những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.
Đoạn thơ chính là những cung bậc cảm xúc khác nhau của đời sống kháng chiến biết bao kỷ niệm đã đọng lại trong tâm trí, ký ức người ra đi. Đó là những dấu khắc ghi không bao giờ phai, những dáng hình thân thuộc sẽ nhớ mãi và trân trọng mãi. Cảm nhận những cảm xúc, những hình ảnh của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ, ta hiểu đó cũng chính là những nghĩ suy, nỗi niềm tâm trạng của chính nhà thơ Tố Hữu và chia sẻ những cảm xúc đó với nhà thơ.
“Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng. Bài thơ đã khắc họa được tình cảm của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ cách mạng. Trong bài thơ, nổi bật lên là khổ thơ thứ bốn đã khắc họa nỗi nhớ về con người và thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến:
Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầyTa đi, ta nhớ những ngàyMình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…”
Để đáp lại ân tình của người ở lại, lời của người ra đi cũng tha thiết không kém. “Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tách rời. Người ra đi khẳng định với người ở lại rằng “lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” dường như đã ghim chặt vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả. Dù hôm nay có chia xa để trở về miền xuôi, thì lòng của người ra đi vẫn không thay đổi. Với việc sử dụng hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy.
Kế tiếp, nỗi nhớ của cán bộ chiến sĩ dành cho đồng bào Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu. Một hình ảnh so sánh thật độc đáo bởi có nỗi nhớ nào mãnh liệt và tha thiết bằng nỗi nhớ của những người yêu nhau. Ca dao xưa từng có câu:
Hay:
Thế mới thấy được tình cảm sâu sắc của chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Tuy họ chưa chia xa mà đã nhớ về nhau với tấm lòng sâu sắc đến chừng nào. Câu thơ tiếp theo được chia ra làm hai vế: “trăng lên đầu núi” – gợi thời gian hò hẹn của đôi lứa yêu nha và “nắng chiều lưng nương” – gợi không gian lao động của người Việt Bắc. Câu thơ như gợi ra cuộc sống lao động chứa chan tình cảm yêu thương, gắn bó.
Người ra đi tiếp tục nhớ về những kỉ niệm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng với đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về bản làng ẩn hiện trong sương khói mờ ảo. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” gợi về một miền Việt Bắc đầy ấm áp, thân thương của “bếp lửa”. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, nhà thơ đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” cùng với hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ gợi ra những kỉ niệm chứa chan yêu thương: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào. Cuối cùng là với cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người ra đi dành cho những người ở lại hay của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.
Với khổ thơ này, Tố Hữu đã thể hiện được nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại trước những kỉ niệm trong đời sống kháng chiến sẽ mãi lưu lại trong tâm trí của cán bộ chiến sĩ.
Đến với bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được tình cảm quân dân giữa đồng bào Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng. Và điều đó được thể hiện vô cùng sâu sắc qua khổ thơ thứ bốn của bài thơ.
Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn bao giờ hết. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:
Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được dù có trải qua bao nhiêu thời gian, hay xa cách về không gian. Nếu nguồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình sâu nặng bấy nhiêu: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Phép tu từ điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.
Nỗi nhớ ấy được khéo léo so sánh với nỗi nhớ người yêu:
Việc so sánh như vậy giúp người ra đi bộc lộ một tình cảm mãnh liệt, sâu sắc dành cho đồng bào Việt Bắc. Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.
Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ:
Nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ về một miền không gian, hay thời gian nào đó đầy thơ mộng, trữ tình. Đó là những “đêm trăng đầu núi”, những “nắng chiều lắng lưng nương” gợi ra không gian, thời gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. “Bếp lửa” – hình ảnh gợi ra khung cảnh của một mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi”. Kế tiếp là các địa danh: “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê” – các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Sau đó người ra đi như muốn khẳng định lại một lần nữa: “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.
Trong cuộc sống đó, người ra đi và người ở lại đã “chia sẻ ngọt bùi” – biết bao cay đắng, ngọt ngào đã cùng trải qua. Với một loạt những hình ảnh gợi ra sự sẻ chia nồng ấm của tình cảm quân dân mà như tình cảm gia đình: “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi”. Họ đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó, cùng giúp đỡ nhau trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn.
Tóm lại, đọc khổ thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc, người đọc đã thấy được một nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi dành cho người ở lại trước cuộc chia ly đầy lưu luyến này.
Trong suốt đường đời hay đường thơ, nhà thơ Tố Hữu luôn mang đến cho độc giả những tác phẩm mang đậm chất chính trị và trữ tình. Đến với đoạn trích ‘Việt Bắc”, bạn đọc có thể cảm nhận được những tình cảm mà người miền xuôi dành cho người ở lại trong ngày bịn rịn chia tay. Nhắc nhớ những tình cảm chân thành ấy, người đi đã có những dòng hồi tưởng nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc qua khổ thơ trên.
Con người và thiên nhiên Việt Bắc dù trong lao động hay trong chiến đấu cũng luôn có sự gắn bó hòa quyện với nhau. Khổ thơ trên đã lột tả được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc, trong đó, thiên nhiên và con người có mối quan hệ gắn bó, không tách rời. Bức tranh thiên nhiên ấy đã được mở ra từ nỗi nhớ
Nỗi nhớ của nhà thơ đã được tái hiện một cách chân thực và gần gũi nhất. Cảnh và người luôn có sự hòa quyện, gắn bó với nhau. Cho nên, nỗi nhớ da diết mà tác giả gửi gắm, vừa là nỗi nhớ thiên nhiên, lại là nỗi nhớ những con người Việt Bắc bình dị mà thân thiện.
Cảnh thiên nhiên Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ là sự mở đầu của bức tranh tứ bình. Bức tranh thiên nhiên có màu sắc, đường nét, âm thanh, gợi ra cả một miền thương nhớ. Cảnh vật vô cùng đơn sơ, nhưng lại gợi sự gần gũi, thân thuộc. Thường theo quy luật: xuân, hạ, thu, đông, mùa xuân đánh nhẽ ra phải là sự mở đầu cho nỗi nhớ. Nhưng nhà thơ Tố Hữu lại lựa chọn mở đầu nỗi nhớ bằng hình ảnh đại diện cho mùa đông
Hồi ức của tác giả trở về trong giờ phút chia tay. Làm sao ta quên được hoàn cảnh lịch sử mùa đông năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Bức tranh mùa đông của Việt Bắc được miêu tả với màu xanh bạt ngàn của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối như những ngọn đuốc sáng rực cả một nền xanh. Vậy là, mùa đông ở Việt Bắc không còn mang vẻ lạnh lẽo, mà luôn ấm áp, tràn đầy sự sống. Hình ảnh con người Việt Bắc cần cù, hăng say trong lao động cũng được tác giả thể hiện một cách rất tinh tế. Hình ảnh đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng làm rẫy, hình ảnh thơ tạo sức gợi nên ý nghĩa hình ảnh con người lao động làm chủ thiên nhiên.
Bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc đã được gợi nhớ theo dòng hồi tường:
Không gian lại được mở rộng ra. Hình ảnh những đồi hoa mơ nở trắng rừng. Màu trắng mang sự tinh khôi, khởi sắc của mọi sự sống đã trải rộng, bạt ngàn trên các núi đồi. Cảnh thiên nhiên gợi ra cho người đọc cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Khoảng thời gian mùa xuân chính là khoảng thời gian vận động trong suốt 4 mùa, gợi sự sinh sôi, nảy nở. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên vô cùng thơ mộng, trữ tình. Gắn với thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên rất đẹp. Từ “chuốt” gợi sự tỉ mỉ, cần mẫn, chịu khó của người dân nơi đây khi bắt tay vào công việc.
Mùa xuân lại đi qua, nhường chỗ cho sự xuất hiện của mùa hạ:
Bức tranh gợi cho người đọc có sự cảm nhận cả về thị giác lẫn thính giác. Âm thanh quen thuộc gợi sự xuất hiện của mùa hè là tiếng “ve”. Đồng điệu với nó là màu vàng bạt ngàn của rừng phách, từ “đổ” gợi sự dàn đều, rộng khắp của màu sắc. Bức tranh ấy hiện lên mang vẻ đẹp của sự tráng lệ, lung linh trong sắc vàng của nắng hè. Cảnh thiên nhiên vừa đẹp, mà lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn bởi có sự xuất hiện của bóng dáng người thiếu nữ. Đọc những vần thơ, ta có thể cảm nhận được nét dịu dàng, mềm mại, uyển chuyển của cô gái Việt Bắc. Cô gái đi hái măng giữ rừng tre, nứa trong khúc nhạc rừng, “một mình” nhưng chẳng cô đơn. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện và tô điểm cho nhau.
Cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu, thơ mộng, trữ tình chính là câu kết cho đoạn thơ:
Không gian được mở ra tràn ngập ánh trăng thanh bình, ánh trăng ấy đang soi sáng khắp núi rừng chiến khu. Dưới ánh sáng của vầng trăng hiền dịu, có đâu đây ngân nga tiếng hát “ân tình” làm xao xuyến lòng người. Tiếng hát là tiếng lòng, bộc lộ tâm hồn thủy chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc.
Có thể nói, đây là một trong những khổ thơ nổi bật nhất trong đoạn trích. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được miêu tả chân thực và rõ nét, có sự hòa quyện tuyệt vời. Con người- thiên nhiên luôn hòa quyện, gắn bó mà không có sự tách rời. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với những nét màu tài hoa.
10 Bài Văn Phân Tích Bài Thơ “Nhớ Đồng” Của Tố Hữu Hay Nhất
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ “Nhớ đồng” nằm trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, viết chính thức vào tháng 7 năm 1939. Đây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do. Mời các bạn tham khảo bài văn phân tích tác phẩm “Nhớ đồng” của nhà thơ Tố Hữu mà chúng mình tổng hợp trong bài viết sau để thấy rõ hơn điều đó.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 10Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Đến với thơ ông, ta bắt gặp những áng thơ tràn đầy niềm tin, lý tưởng cách mạng. Tập thơ “Từ ấy” của ông tiêu biểu cho hồn thơ sục sôi, nhiệt huyết ấy, bài thơ “Nhớ đồng” là một trong những bài thơ hay nhất của tập thơ.
Bài thơ được viết trong hoàn cảnh Tố Hữu bị cầm tù nơi ngục tối. Bài thơ là tiếng lòng tha thiết và nỗi nhớ quê hương khôn nguôi của tác giả. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ, là tiếng thơ tựa tiếng hát yêu thương, bộc lộ nỗi cô đơn, nỗi mong nhớ sâu thẳm nơi đáy lòng của người chiến sĩ cách mạng:
“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò”
Lối so sánh hơn độc đáo của tác giả gợi lên nỗi nhớ da diết đầy xúc cảm. Không có gì thương và buồn hơn là những ngày trưa thương nhớ quê nhà. Càng nhớ lại càng cô đơn, nỗi nhớ càng rộng lớn bao nhiêu thì nỗi cô đơn lại càng ngập tràn, “hiu quạnh” bấy nhiêu. Một tiếng hò tình quê cất lên thắm thiết mang thương nhớ cồn cào hay tiếng hò ấy là tiếng lòng hiu quạnh, lạnh giá, đơn độc của nhà thơ nơi chốn tù đày đau thương. Niềm mong nhớ ấy cứ khắc khoải, chực chờ, bao hình ảnh quê hương dần hiện về trong tâm khảm. Càng nhớ càng thương lại càng buồn trĩu nặng:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thuở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi”
Nơi chốn quê nhà thương yêu ấy có biết bao vẻ đẹp, bao dấu ấn mãi chẳng thể nào quên được. Đó là những gì đẹp đẽ nhất mà chỉ có ở chốn quê hương mình mà thôi, chẳng nơi đâu có thể thay thế được. Đó là hương gió nhẹ nhẹ hòa trong mùi đất lành thơm ngát, là những luồng tre xanh toả bóng mát chiều hè.
Quê hương ấy còn là những cánh đồng có ô mạ xanh tươi nơi có những người dân cày một nắng hai sương lam lũ, chân chất, thật thà. Và đó còn là những ruộng nương khoai sắn ngọt bùi, là những mái nhà tranh ấm êm bình dị, tuy nghèo khó mà tấm lòng bao la, chứa chan tình người dành cho nhau. Cảm xúc theo nỗi nhớ trào dâng trong lòng, tiếng thơ mang theo biết bao tâm tình trong sâu thẳm tâm hồn.
Điệp từ “Đâu” đứng ở đầu câu vừa như một câu hỏi tu từ lại vừa như đang kiếm tìm chút gì đó thân thuộc của những ngày xưa nơi quê nhà, khi mà chưa có chiến tranh, mất mát, đau thương. Đâu rồi những khung cảnh của ngày xưa, hiện tại sao thấy trống vắng mà hụt hẫng đến vậy.
Đâu chỉ có cảnh vật quê hương, nỗi nhớ đó còn hướng về những con người của miền quê. Những người lao động cần cù nhẫn nại, qua bao gian khó vẫn kiên cường tranh đấu, vẫn hăng say với lao động. Nhà thơ nhắc đến họ bằng tình yêu và niềm kính trọng
“Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ủ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.”
Dù có vất vả mệt nhọc, có khó khăn chồng chất thì những người nông dân vẫn giữ vững niềm tin, lạc quan trong gian khó. Vẫn cất lên giọng hò tha thiết xua tan những âm u, não nề. Bao kỉ niệm vẫn vậy, vẫn còn đó, vẫn được giữ mãi trong kí ức của nhà thơ. Khi nỗi nhớ cứ ngày một lớn thì kỉ niệm cũng theo dòng cảm xúc ùa về trong tâm tưởng. Nỗi nhớ làm sao ai có thể ngăn được. Một lần nữa, nhà thơ phải thốt lên nghẹn ngào:
“Gì đâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò”
Biết bao vẻ đẹp xưa hiện về khiến lòng người không khỏi khắc khoải, nhớ thương. Nhưng đâu ai có thể sống mãi với quá khứ được, hiện tại luôn là thứ khiến con người phải trăn trở, đấu tranh:
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!”
Thực tại sao phũ phàng quá đi thôi, chỉ có nhà thơ đang nơi đây một mình một cõi. Bao cách biệt xa xôi thấm dần vào nỗi buồn kẻ cô đơn, chiếc bóng, những điều thân thuộc, bóng mẹ già cũng xa rồi, chỉ còn lại nỗi thương nhớ cứ dằn vặt mãi không thôi. Những lời cảm thán “Chao ôi”,”Ôi” cất lên nghe ngậm ngùi mà thê lương quá. Ta như cảm nhận được nỗi xót xa, đắng cay hòa trong từng lời thương nhớ vậy.
Tố Hữu – một nhà thơ- một chiến sĩ cách mạng yêu quê hương đất nước mình bằng một tấm lòng thiết tha, trọn vẹn. Tâm hồn luôn hướng về nguồn cội, về dân tộc và tổ quốc thân thương, gắn bó với nhân dân, cùng nhân dân lao động. Dẫu trong ngục hiểm nguy, khó khăn vẫn hướng về cuộc sống ngoài kia với những nỗi đau của dân tộc. Không chỉ là nhân dân, là đồng quê, Tố Hữu còn tìm về mình của những ngày xưa qua nỗi nhớ:
“Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.”
Ai cũng có cho mình một quá khứ và Tố Hữu cũng vậy, nhà thơ nhớ về những tháng ngày đầy gian nan khi đi tìm lẽ sống, kiếm lẽ yêu đời nhưng vẫn mãi một vòng quanh quẩn, chẳng tìm đâu ra một lối thoát cho cuộc sống chính mình. Nhưng rồi, mọi chuyện cũng trôi qua và trở nên tốt đẹp hơn khi bắt gặp được lý tưởng cách mạng sáng soi:
“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng ưa ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời”
Lòng đầy hưng phấn, nhẹ nhàng khi tìm thấy chính niềm yêu trong lựa chọn của mình. Sự phấn khởi, hăng say, tự hào và khát khao cuộc sống được cất lên như một nốt nhạc tươi vui giữa cuộc đời. Còn gì vui hơn khi được sống với chính mình, có được sự nhẹ nhàng trong tâm khảm và được là chính mình cơ chứ? Hình ảnh so sánh niềm “nhẹ nhàng” với cánh chim thật độc đáo và ấn tượng, đó phải chăng đây chỉ là niềm vui riêng mà còn là niềm vui chung cùng với thiên nhiên, đất trời.
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!”
Bài thơ kết thúc bằng lời thơ được lặp lại đầy ắp một niềm thương, niềm khắc khoải khôn nguôi. Có lẽ, nỗi nhớ mãi vẫn sục sôi, cuộn trào trong trái tim người thì sĩ yêu nước.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 10
Từ ấy được xem như những trái ngọt đầu tiên mà Tố Hữu đã gặt hái được đế dâng cho đời. Đến với tập thơ chúng ta không chỉ bắt gặp một thanh niên yêu cách mạng, say mê lí tưởng mà còn thấy được hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng đang sông và chiến đâu. Vì vậy, Từ ấy không chí có những bài thơ tràn đầy cảm xúc say mê lí tưởng, mà còn có những bài ghi lại những chặng đường chiến dấu bị tù đày gian khổ, trong số đó phải nói đến bài thơ Nhớ đồng.
Bài thơ được Tố Hữu viết vào tháng 7 năm 1939, bốn tháng sau khi nhà thơ bị mật thám bắt và cầm tù. Toàn bài thơ là nỗi nhớ tha thiết. Mở đầu bài thơ là lôi nói so sánh được nhà thơ nêu ra như đê xác định tâm thế cô đơn của chính mình:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Nhà thơ như tự hỏi chính lòng mình để rồi tự khẳng định tâm trạng của chính mình. Đày chính là tâm trạng cô đơn, quạnh vánh và cồn cào nhớ thương. Câu thơ như một tiếng thở dài buồn đến da diết. Chúng ta lại chợt nhớ đến hình ảnh của người chiến sĩ cộng sản lần đầu tiên bị ném vào tù trong bài Tâm tư trong tù:
Thế nhưng đến đây ta không chỉ cảm nhận thấy sự cô đơn mà còn cảm thấy cái buồn tê tái, cái hiu quạnh đến lạnh lẽo, và sự thương nhớ như đang vò xé gan ruột. Sau hai câu thơ đầu mở ra như lời bộc bạch tâm sự, nhà thơ lần lượt cho ta thấy rõ nỗi nhớ nhung trong tâm hồn người cách mạng:
Đâu gió còn thơm đất nhả mùi
Đâu luồng tre mát thuở yên vui
Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn
Đâu những nương khoai sắn ngọt bùi
Đâu những đường con bước vạn dời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im lơi
Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…
Không gian của bài thơ như được trải rộng ra. Đó chính là không gian của quê hương yêu dấu nơi có mùi đất quá quen thuộc, nơi có bóng tre mát rượi, những ô mạ xanh mơn mởn, nơi trải dài nương khoai, nương sắn và cả những mái tranh thấp bình dị. Không gian được trải rộng ra phải chăng cũng chính là sự trải rộng của nỗi nhớ trong lòng nhà thơ.
Đáng lưu ý là trước mỗi cảnh vật quen thuộc như vậy là từ đâu dùng để’ hỏi. Tuy nhiên ở đây nhà thơ không chỉ đơn thuần là sự tìm kiếm, là hỏi vị trí mà chính là đang tự hỏi lòng mình, đang lục lại trong trí nhớ những gì đả xa, đã mất. Đâu gợi lên trong chúng ta sự mất mát trống vắng.
Từ Đâu được Tố Hữu lặp lại năm lần liên tiếp làm cho nỗi nhớ như càng được nhân lên dồn dập, làm cho sự trống vắng mất mát hụt hẫng trong lòng nhà thơ nhân lên đến xót xa. Vì vậy có thể nói đây đã trở thành tiếng gợi nhớ thương đến cồn cào da diết. .Và nỗi thương nhớ hiu quạnh ấy như được trải dài ra bởi:
Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…
Có thể nói, hai khổ thơ trên đã khái quát một cách sâu sắc nỗi nhớ quê hương đồng ruộng. Nồi nhớ ấy dâng lên và thốt ra nghẹn ngào thấm thía:
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!
Vẫn là cách nói so sánh diễn tả sự vắng vẻ cô đơn. Ôi và nhớ ơi xuất hiện trong cùng một câu thơ làm cho nỗi nhớ quê càng trở nên da diết hơn bao giờ hết.
Nhớ đến ruộng đồng quê hương nhà thơ đồng thời hướng nỗi nhớ của mình đến con người. Đây là những con người lao động gần gũi đang lưng cong xuống luống cày, vãi giống tung trời. Nhưng tất cả cũng chỉ là trong tiềm thức, chỉ còn là nỗi nhớ. Và giờ này cảnh vật và con người cũng hiện lên đầy buồn nhớ như chính tâm trạng của nhà thơ:
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúc mềm xao xác ủ ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lùa nước
Một giọng hò đưa hớ não nùng.
Tất cả hình ảnh con người hiện lên trong tâm trí nhà thơ càng làm cho nỗi nhớ về cuộc sống thêm da diết. Tất cả đã xa rồi, đối diện với nhà thơ lúc này chỉ là kỉ niệm, những kỉ niệm đang cào xé chĩ có thế mơ tới, chi không thể với tới được. Và một lần nữa nhà thơ đã phải thốt lên:
Gì đâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò.
Câu thơ được điệp lại làm cho nỗi nhớ thương, sự cô đơn trong lòng nhà thơ càng tăng lên. Và tất cả kỉ niệm như vụt biến, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng và nhận ra:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Sao mà cách biệt, quá xa xôi
Chao ôi thương nhở, chao thương nhở
Ôi mẹ giờ xa đơn chiếc ơi!
Có lẽ đấy là tiếng gọi của sự nhớ thương, là tiếng nói xót xa cho hoàn cảnh bị giam cầm. Người chiến sĩ cách mạng chợt nhận ra thực tại sao mà cách biệt quá xa xôi. Cũng bởi lẽ thế mà nỗi nhớ lại cồn cào thêm. Chi trong một câu thơ thôi mà thương nhớ được điệp tới hai lần. Từ chao càng làm cho nỗi nhớ ấv trở nên da diết xót xa hơn.
Qua nỗi nhớ quê hương, con người chúng ta không chí thấy hiện lên hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng đang cô đơn trong ngục tù mà còn cho ta thấy tấm lòng yêu quê hương, sự gắn bó của người chiến sĩ với quần chúng nhân dân lao động, luôn luôn hướng tới cuộc sống bên ngoài. Đó cũng là những nét rất cơ bản và quen thuộc về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản bị tù đày trong thơ Tố Hữu.
Sau những khoảnh khắc thương nhớ, nhà thơ chợt nhìn và nhớ về chính bản thân mình. Các khổ cuối của bài thơ sẽ cho ta thấy rõ sự nhận thức ấy.
Trước hết là nhớ về bản thân mình:
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ơi, bước chẳng rời.
Vẫn là sự lục tìm trong trí nhớ, song đã có sự nhận thức rất rõ ràng về những ngày xưa. Nhà thơ nhớ lại những ngày bế tắc, những ngày băn khoăn kiếm tìm lẽ sống. Đấy chính là những ngày nhà thơ chưa bắt gặp lí tưởng cộng sản. Những từ ngữ như: vấn vơ, băn khoăn, quanh quẩn đã diễn tả một cách chính xác sự bế tắc trong con người nhà thơ lúc này.
Ba tiếng tôi nhớ tồi. vang lên như một sự nhận thức thấm thía, buồn cho cuộc sống theo mãi vòng quanh quẩn, muốn thoát nhưng chẳng thể bước nổi. Khổ thơ tiếp theo chuyển sang một giọng điệu hoàn toàn khác đầy say sưa hưng phấn:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời
Nhà thơ nhớ lại ngày tôi thấy tôi nghĩa là ngày tự soi vào lòng mình, tự thấy mình đã trưởng thành, thấy lẽ vêu đời. Lúc này là lúc nhà thơ cảm thấy hạnh phúc. Niềm hạnh phúc ấy được tác giả ví với hình ảnh của con chim cà lơi nhẹ nhàng tung bay trên bầu trời.
Đây là một hình ảnh so sánh hết sức độc đáo. Niềm vui, niềm hạnh phúc ấy được Tô’ Hữu diễn tả một cách tinh tế bằng các từ say đồng, vui ca hát, bát ngát trời. Đặc biệt với câu thơ nhẹ nhàng như con chim cà lơi, Tố Hữu dùng tới sáu thanh bằng, vì vậy đã diễn tả được cái phơi phới trong tâm hồn nhà thơ — một tâm hồn say mê lí tưởng. Trở về với thực tại, nhà thơ lại đầy ắp tâm trạng:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày.
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Như cánh chim buồn nhớ gió mây.
Câu thơ mở đầu khổ thơ trên như một lời than. Đây là sự tiếc nuối quá khứ đã qua, là sự xót xa trong nỗi đau thực tại. Tới giờ đây được lặp lại hai lần làm cho sự xót xa được nhấn mạnh thêm. Và lúc này tất cả tâm hồn người chiến sĩ hướng ra cuộc sống bên ngoài: tôi mơ qua cửa khám bao ngày.
Tuy nhiên đọng lại cả khổ thơ là nỗi buồn bị cùm trói trong tù túng, siết chặt trong thầm lặng. Và nếu trước đây, hình ảnh cánh chim được so sánh để diễn tả sự ngây ngất say mê lí tưởng thì giờ đây cánh chim lại gắn với nỗi buồn. Qua đó ta thấy được khát vọng tự do của người chiến sĩ cách mạng. Kết thúc bài thơ là điệp khúc được vang lên lần thứ hai trong bài thơ:
Ôi ruộng đồng quê hương nhớ ơi!
Điệp khúc này tạo cho bài thơ có cấu trúc đặc biệt: mở ra bằng nỗi cô đơn, nỗi nhớ và kết thúc cũng vậy. Vì vậy, có thể nói nhớ là nét chủ đạo bao trùm 44 câu của bài thơ.
Nhớ đồng – cái tên bài thơ đã mở ra đầy nhớ thương. Nhưng bài thơ không chỉ có tâm trạng nhớ què, nhớ những con người say mê lí tưởng, khát khao tự do. Đấy cũng là nét đẹp trong phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng trong thơ Tố Hữu nói riêng và những người chiến sĩ cách mạng Việt Nam nói chung.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 8Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 9
Tố Hữu được biết đến và nhắc nhớ trong thi ca Việt Nam là một nhà thơ có hồn thơ da diết đậm chất trữ tình. Và quan trọng hơn là thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Có lẽ Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại.
Thơ Tố Hữu như đã quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là “Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”. Tố Hữu có rất nhiều thi phẩm nổi trội độc đáo và một trong số đó phải kể đến tác phẩm “Nhớ đồng”.
Ta đã biết đến bài ‘Tâm tư trong tù” được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài” Khi con tu hú” được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài “Nhớ đồng’ thì có thể nói cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.
Là người con của xứ Huế mộng mơ. Nên từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ như đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như câu Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Có lẽ chính vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò như đã thôi thúc, đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.
Thi phẩm “Nhớ đồng” đã phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí thân thương. Nếu như người đọc nhận ra rất dễ trong “Tâm tư trong tù’ thì tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ.
Thì dường như ngược lại còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết. Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Bài thơ “Nhớ đồng” có thể chia làm bốn đoạn. Chia ra ở ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Nỗi nhớ dường như cứ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.
Các câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt và da diết của nỗi nhớ thương. “Gì sâu bằng” chính là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Từ nghi vấn Gì kết hợp với tính từ sâu khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Tác nhân gợi nhớ là tiếng hò quen thuộc của quê hương xứ Huế; giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù. Đó là những âm thanh của đời thường luôn luôn vang vọng trong kí ức nhà thơ.
Những ngày bị giam hãm trong tù, tâm hồn nhà thơ luôn hướng ra cuộc sống bên ngoài với tất cả nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trong tâm tưởng nhà thơ. Nhiều nhất là hình ảnh của mảnh đất cắt rốn chôn nhau cùng với những người dân quê lao động lam lũ, vất vả trên đồng ruộng:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?
Đâu những đường con bước vạn đời
Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi
Đây là bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu An Cựu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang lững lờ trôi. Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp xiết bao! Vậy mà giờ đây, quê hương thân yêu chỉ cách có bức tường nhà lao mà sao xa vời vợi ?! Những câu hỏi đầy trăn trở cứ lặp đi lặp lại phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Đâu gió cồn thơm…, Đâu ruộng tre mát…, Đâu từng ô mạ…, Đâu những nương khoai…, Đâu những đường con…, Đâu nhà tranh thấp… ? Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.
Có thể nói giọng điệu thơ mở trong bài như da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,
Những người nông dân hiền như đất, học hăm chỉ lao động quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực, nghèo túng vẫn không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai ?
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Một giọng hò đưa hố não nùng.
Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất là những hình ảnh đầy nghẹn lời, những hình ảnh đó đườn như cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:
Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Những hồn chất phác hiền như đất
Khoai sắn tình quê rất thiệt thà!
Điệp từ nghi vấn Đâu đặt ở đầu câu cùng với một loạt từ cảm thán đã diễn tả một cách tự nhiên và chân thực tình cảm gắn bó máu thịt của nhà thơ đối với cuộc sống và con người quê hương. Dường như người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này.
Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai mà nó dương như cứ cắt cứa không nguôi. Tố Hữu luôn luôn nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc trong câu thơ trên như đã phát triển rất đúng với lôgíc tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời.
Đó là những ngày người thanh niên học sinh yêu nước đang băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi Mặt trời chân lí chói qua tim.
Nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với bao nhiêu hi vọng, lạc quan, tin tưởng là để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ như chợt bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động. Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn:
Trên chín tầng cao bát ngát trời…
Mạch cảm xúc trong bài thơ được triển khai từ nỗi nhớ đồng, nhớ những bóng hình quen thuộc của quê hương, gia đình, nhớ mẹ già, nhớ những người đã khuất, nhớ những ngày đã qua và cuối cùng được cô đúc lại trong từ tất cả có ý nghĩa khái quát:
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Hình ảnh so sánh thật độc đáo có sức gợi hình “Như cánh chim buồn nhớ gió mây’ như đã thể hiện thần tình được nỗi nhớ đồng da diết. Và thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.
Hai câu kết của bài còn là sự lặp lại của hai câu thơ đầu. Chính lối kếu cấu đặc sắc này đã tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ như khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm vậy, vòng sóng ấy mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Bài thơ “Nhớ đồng” thì Tố Hữu đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương da diết đến cháy bỏng cứ thế, cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng chính là nguồn động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước này.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 7Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 8
Bài Nhớ đồng được sáng tác khi nhà thơ đang bị giam trong nhà lao Thừa Phú (Huế). Cả bài thơ là tâm tư của người tù – chiến sĩ vốn gắn bó thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống và con người quê hương xứ sở.
Trong những buổi “trưa hiu quạnh” của cuộc sống mất tự do sau cửa khám, nỗi Nhớ đồng trong lòng người tù – nhà thơ dâng lên từ một âm thanh quen thuộc – tiếng hò – vọng vào nhà tù. Thế là bao nhiêu kí ức về đồng quê hương cùng lúc hiện về trong tâm tưởng. Điệp khúc:
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
– Gì đâu bằng những trưa hiu quạnh
Ôi ruộng đồng quê hương thương nhớ ơi!
được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh nỗi buồn thấm thía, da diết, khắc khoải trong tâm can con người. Hình ảnh đồng quê, làng xóm, con người,… dần dần hiện lên trong trí nhớ người chiến sĩ vốn gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.
Những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, mùi vị của cuộc sống dân dã nơi đồng quê cùng òa ập, hiển hiện: gió cồn thơm đất nhà mùi, ruồng tre (rặng tre) mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai, xóm nhà tranh, lúa mềm xao xác, tiếng xe lùa nước, giọng hò đưa hố,… Ở trong tù, nhà thơ vẫn gắn bó thiết tha với đời sống.
Trong nỗi nhớ niềm thương, con người và cảnh vật quê hương càng trở nên sống động, gần gũi đến lạ lùng. Nỗi Nhớ đồng quê da diết nhất chính là nỗi nhớ những người nông dân quê cần cù, chất phác hiền như đất, rất thật thà quen dãi nắng dầm mưa. Trong kí ức và tâm hồn nhà thơ, những người dân quê đáng yêu đáng quý ấy chính là những người làm chủ đất đai, làm nên mùa màng, làm nên sự sống – niềm hi vọng âm thầm, bền bỉ mà bất diệt của đồng quê:
Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hi vọng nức hương ngây
Và đâu hết những bàn tay ấy
Vãi giống tung trời những sớm mai?
Đoạn thơ như chạm khắc vào trời đất một bức tượng khỏe khắn – bức chân dung người lao động, tạo nên một vẻ đẹp trưởng cữu của những công việc lao động đem lại giá trị của sự sống, hi vọng vào tương lai.
Điệp từ đâu những, đâu rồi, thương nhớ ơi,… làm nỗi nhớ càng thêm sâu sắc, khắc khoải. “Nhớ đồng” là nhớ rất cả những gì làm nên cuộc sống ngoài nhà tù, mà giờ đây, người chiến sĩ đang trong hoàn cảnh phải cách biệt với tất cả. Cảm giác nhớ da diết, buồn não lòng là cảm giác, nỗi buồn rất thật.
– Phần sau của bài thơ tạo ra một bước chuyển trong mạch tâm tư của tác giả. Sau thoáng buồn nhớ da diết, người chiến sĩ nhớ lại hình ảnh chính mình của những ngày xưa, cái thời “theo mãi vòng quanh quẩn” để đến với cách mạng, với Đảng như sự thức tỉnh của lí trí không cho phép nhà thơ đắm chìm mãi trong nỗi nhớ thương.
Và thế là nhà thơ lại khao khát tự do, thèm muốn được thoát khỏi chốn lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu. Hình ảnh con chim sơn ca “Say đồng hương nắng vui ca hát – Trên chín tầng cao bát ngát trời” mang đậm cảm hứng lãng mạn bay bổng, nó tạo nên sự đối lập cao độ giữa ước mơ và thực tại nghiệt ngã của “cảnh thân tù”.
Tâm tư của người chiến sĩ trong tù được thể hiện khá chân thực và liền mạch: Nỗi nhớ được đánh thức từ “một tiếng hò đưa hố não nùng”. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê từ cảnh sắc đến những dáng hình quen – từ những người dân quen lao động miệt mài đến những người mẹ già thân thương đơn chiếc. Rồi nhớ về những ngày còn tự do; cuối cùng trở lại với thực tế “cảnh thân tù” để dặn lòng phải vượt lên hoàn cảnh, kiên trì lẽ sống và tin vào ngày mai.
Cùng với các bài thơ khác trong tập Từ Ấy, Nhớ đồng đem đến cho thơ Việt Nam trước những năm 1945 một “cái tôi” trữ tình cách mạng độc đáo.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 7
Bài thơ Nhớ đồng của Tố Hữu được lấy cảm bứng từ một tiếng hò thân thuộc của quê hương và tiếng hò ấy trở thành mạch cảm xúc của bài thơ.
– Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên sông một tiếng hò!
– Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Về mặt hoàn cảnh trữ tình, khi nghe một tiếng hò vọng lên lẻ loi, đơn độc giữa trời trưa, thi sĩ cảm nhận tất cả sự hiu quạnh, và bỗng thấy nhớ thương đồng quê, con người nhọc nhằn trên đồng quê ấy. Đó là sự đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh: hiu quạnh của không gian đồng vắng, của thời gian trưa vắng, của cuộc đời buồn tủi nhọc nhằn và hiu quạnh ngay trong lòng người đang bị giam cầm giữa bốn bức tường đá, cách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Về mặt nội dung, hai câu thơ vang lên một tiếng than. Tiếng kêu xác nhận về nỗi quạnh hiu thăm thẳm mà mình đang trải nghiệm. Cũng là tiếng kêu của một triết lí về nỗi quạnh hiu cùng cực, không gì có thè sánh nổi này! Qua đó, người ta thấy được một cõi lòng hoang vắng vì cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài. Cho nên nổ là nỗi quạnh hiu của một người tha thiết yêu đời mà bị cách li khỏi cuộc đời.
Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trước hết có tác dụng liên kết. Lặp và điệp từ là một cách liên kết các mảng nội dung khác nhau, thậm chí xa nhau trở nên liền mạch ý. Nhưng quan trọng hơn là tác dụng biểu cảm. Việc lặp lại này bao giờ cũng có tác dụng như một điệp khúc, nó nhấn mạnh, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng. Lặp lại, điệp từ tạo ra một nhịp điệu luân hồi, triền miên khiến cho một nỗi niềm trở nên da diết khôn nguôi, thậm chí càng lúc càng nặng trĩu.
Đồng quê hiện lên rất đậm nét qua nỗi nhớ của tác giả. Đó là những cảnh sắc như đồng ruộng với những cồn thơm, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai sắn ngọt bùi; xóm nhà chìm lặng, con đường mòn mỏi theo năm tháng. Tất cả đều là những cảnh sắc đơn sơ quen thuộc mà rất đỗi thân thương. Là những bóng dáng người lao động lam lũ, nhọc nhằn, và nhất là bóng dáng người mẹ già đơn chiếc – những kiếp người muôn đời gắn bó với đất đai.
Họ chất phác và bền bỉ như đất đai. Tóm lại, Nhớ đồng là nhớ toàn bộ cuộc sống bên ngoài mà giờ đây đã trở nên cách biệt đối với người chiến sĩ bị tù đày. Nhớ đồng là một tâm trạng khá chân thực và trọn vẹn với những diễn biến tự nhiên, liền mạch. Nỗi nhớ bắt đầu dâng lên khi nghe thấy tiếng hò. Tiếng hò gợi dậy tất cả những gì của thế giới đồng quê bên ngoài.
Đầu tiên là nhớ những cảnh sắc, rồi nhớ đến những bóng dáng con người: từ những người lao khổ trên đồng đến hình bóng thân yêu nhất là người mẹ già nua đơn chiếc. Rồi nhớ về chính mình những ngày chưa bị giam cầm, tóc đang được tung hoành trong bầu trời tự do bát ngát. Cuối cùng khi trở lại với thực tại bị giam cầm, trong lòng tác giả trĩu nặng một nỗi nhớ triền miên.
Nỗi nhớ bắt đầu từ hiện tại đi ngược về quá khứ rồi cuối cùng lại trở về hiện tại; từ thực tại giam cầm ngược về thuở tự do rồi lại trở về với thực tế giam cầm. Nó không chỉ có nhớ nhung mà còn tràn ngập xót thương, không chỉ có buồn rầu thương nhớ cuộc đời mà còn cháy bỏng niềm khao khát tự do. Và quan trọng hơn, bên dưới tâm trạng ấy là một nỗi bất bình, phẫn uất với thực tại.
Bài thơ mang tên Nhớ đồng nhưng cảm xúc và hình ảnh không dừng lại ở nỗi nhớ đồng, mà đó còn là sự nhớ thương cuộc sống, nỗi lòng khao khát tự do và bất bình với thực tại.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 5Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 6
Tố Hữu hoạt động trong phong trào học sinh ở Huế, bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế, 1939). Vào tù, Tố Hữu sáng tác nhiều bài thơ diễn tả tâm tình của một cách mạng trẻ tuổi, sau này được tập hợp trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy. Bài thơ Nhớ đồng là những dòng tâm tư nồng nhiệt, tha thiết, trong trẻo của nhà thơ trẻ hướng về ruộng đồng, quê hương, về những con người thân yêu, về những kỉ niệm của một thời hoạt động cách mạng sôi nổi.
Bài thơ có lời đề “tặng Vịnh” (Nguyễn Chí Thanh) một người bạn đồng hương, cùng hoạt động cách mạng và cùng bị tù trong nhà giam Thừa Phủ. Có lẽ bài thơ được gợi hứng trực tiếp từ giọng hò của Vịnh trong những trưa tù cô quạnh:
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Giọng hò của người bạn tù đã gợi lên hình ảnh đồng quê, thức dậy trong lòng nhà thơ tình yêu quê hương, xóm làng:
Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Điệp từ “đâu”‘ tạo ra nhạc điệu tha thiết, diễn tả niềm thương nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ trẻ. Các giác quan của thi sĩ được thức dậy với đồng quê. Hương vị đậm đà của gió, của đất, và tài hoa của Tố Hữu chỉ là một từ (cồn) gợi lên hình ảnh của xứ Huế “Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi”. Tác giả cũng tinh tế trong cảm nhận, nghe được hơi thở của “ruồng tre mát”, nhìn thấy từng ô mạ xanh mơn mởn, thấm được vị của “những nương khoai ngọt sắn bùi”.
Trong nỗi nhớ đồng quê của nhà thơ chẳng những có tình cảm nồng nhiệt mà còn có tư tưởng, đây là nét mới so với các nhà thơ lãng mạn đương thời:
Xóm nhà tranh chấp ngủ im hơi
Những “con đường” thân thuộc mà cũng chật chội quá, những xóm nhà tranh thương quá, sao mà nghèo! Một đồng quê tù đọng, “âm u”, “không đổi”. Nhìn ra sự bất biến của đồng quê, mà cũng là của xã hội đương thời, đã chớm nở tư tưởng muốn thay đổi, cách mạng!
Sự “cựa quậy” về tư tưởng ấy đã làm xê động cả điệp khúc của bài thơ. Từ:
Đã thành:
Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh
Nhưng nhà thơ không tắt niềm tin tưởng vào cuộc sống. Nhà thơ gửi gắm niềm hi vọng vào những con người “lưng cong xuống luống cày”, những bàn tay gieo hạt “tung trời sớm mai”:
Đâu những lưng còng xuống luống cày
Những hình ảnh khoa trương gợi nhớ bài thơ “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của Huy-gô:
… Bóng đêm đầm mặt ruộng.
Tơi tả áo quần giây
Cụ già vung nắm giống
Mùa sau xuống luống cày
Dáng người cao đen sẫm
Vời vợi trên đồng sâu
Hẳn lòng người tin lắm
Tháng ngày kia đến đâu…
hay là:
Trong màn đêm lan rộng
Nghe lẫn tiếng rì rào
Cánh tay người gieo giống
Như vươn tới trời sao…(Tố Hữu dịch)
Nổi bật lên trong nỗi nhớ đồng là hình ảnh của những con người thân quen, ruột rà, mới gần gũi đây mà đã xa xôi, cách biệt:
Đâu bóng hình quen đâu cả rồi
Sao mà cách biệt quá xa xôi.
Những con người đồng quê mà nhà thơ đã thân quen “tự thuở xưa”, và đã hiểu được bản chất, tâm tư, tình cảm cuộc sống trong những con người “dãi gió dầm mưa” đó:
Những hồn chất phác hiền như đất
Và sâu thẳm trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ mẹ già… Nỗi nhớ da diết dâng trào lên trong âm điệu trùng điệp đến nao lòng:
Chao ôi, thương nhớ, chao thương nhớ
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!.
Rồi nhà thơ nhớ lại chính mình. Người thanh niên trong tù ngục, kiếm tìm lại những hình ảnh của người thanh niên “ngày xưa”:
Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời.
Kỉ niệm không bao giờ phai nhòa trong tâm trí nhà cách mạng trẻ tuổi là những giây phút bắt gặp lí tưởng:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Tác giả hồi tưởng lại một cách hết sức xúc động bằng hình ảnh so sánh thích hợp (nhẹ nhàng như con chim cà lơi), bằng lối khoa trương hồn nhiên (trên chín tầng cao bát ngát trời). Với cánh chim tự do, say sưa với hương đồng gió nội, “vui ca hát” trên không gian của đồng quê cao rộng, nhà thơ vừa hồi tưởng lại kỉ niệm đẹp đẽ của giây phút bắt gặp chân lí cách mạng, vừa diễn tả nỗi thèm khát của cánh chim tự do, nay bị nhốt trong lồng:
Tôi thu tất cả trong thầm lặng
Bài thơ Nhớ đồng đã biểu hiện một cách chân thành và sinh động tâm tư của một nhà cách mạng trẻ tuổi bị lâm vào cảnh tù ngục. Nỗi khao khát cuộc sống tự do, tình cảm thương nhớ đồng quê, thương nhớ những người thân yêu… được biểu hiện bằng những hình ảnh, âm thanh sống động, trong trẻo.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 5
“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!…”
Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.
Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên.
Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa.
Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng”… như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi.
Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!
Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng…” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:
“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi
Đâu ruồng tre mát thở yên vui
Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”
Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí.
Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:
“Đâu những đường con bước vạn đời
Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”
Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình!
Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế…
Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:
“Đâu những lưng cong xuống luống cày
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Vãi giống tung trời những sớm mai?”
Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:
“Một ông lão đang tung
Gieo mùa sau xuống đất.
Bóng ông già cao thẫm
Giẫm trên rãnh cày sâu.
Chắc ông tin tưởng lắm.
Vào ngày tháng ruổi mau.”
(Xuân Diệu dịch)
Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”!
Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!
Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn!
Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”
Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương.
Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế!
Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thiệt thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước.
Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:
“Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Trên chín tầng cao bát ngát trời…”
Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, ngạo nghễ, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời.
Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng.
Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.
Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ khắng khít với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù.
Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.
Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 3Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 4
Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập lơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.
Tháng 7 năm 1939 Tố Hữ bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừ Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.
“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:
Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.
Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:
Đâu ruồng che mát thở yên vui
Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương.
Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con người, mùi hương, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc… của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.
Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:
Mà bùn hy vọng nức hương ngây
Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phầm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.
Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:
Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi
Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.
Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên.
Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Say hương đồng vui ca hát
Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.
Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến.
Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 2Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 3
Tố Hữu (1920 – 2002) xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ông đã đóng góp cho nền văn học việt Nam đặc biệt vào thời kì cách mạng, thơ của ông mang tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Những tác phẩm của Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần dân tộc. Ông xứng đáng là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Nhớ đồng là một trong số những bài thơ tiêu biểu phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí Những tâm tư ấy được thể hiện trong bài thơ Nhớ đồng một cách thâm trầm, da diết. Qua bài thơ Nhớ đồng đã góp phần cụ thể hóa thành nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Cả bài thơ có thể chia làm bốn đoạn,ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ sâu sắc kết thúc bằng câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.Bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo khác nhau, nỗi nhớ đó trải dài xuyên suốt cả bài thơ, bắt đầu với biện pháp sử dụng những câu hỏi tu từ ở cuối mỗi khổ thơ: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh.
Những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù,mong ngóng được trở về từng ngày.Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định rằng có một thứ gì, không có một cái gì, không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Tố Hữu đã sử dụng những câu hỏi tu từ kết hợp với tính từ mang tính chất mãnh liệt khiến câu thơ như một câu hỏi nhức nhối tâm can. Câu hò quen thuộc của xứ Huế là cái cớ gọi về nỗi nhớ,nó giống như âm thanh của tiếng guốc đi về ờ bài Tâm tư trong tù.
Những âm thanh đó đã ăn sâu vào kí ức của chính tác giả, cũng giống như âm thanh của tiếng hò Huế, âm thanh của tiếng gà trưa của thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc kéo nhân vật trữ tình về với những nỗi niềm thương nhớ như vậy. Tiếng hò ngân dài trên sông nước, văng vẳng lúc gần lúc xa đã làm sống dậy biết bao hình ảnh của cuộc sống giản dị mến thương trong tâm tưởng nhà thơ.
Đâu ruộng tre mát thở yên vui
Năm từ “ đâu” xuất hiện trong mười câu thơ, giống như một sự tiếc nuối của tác giả những năm tháng xưa cũ,hiện tại đâu còn, chỉ là nhắc nhớ lại vậy thôi. ở đây bức tranh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của quê ngoại nhà thơ, một làng nhỏ với những cồn bãi mướt xanh cây trái, có chiếc cầu lặng lẽ soi bóng xuống dòng Hương Giang hững hờ.
Khung cảnh thật đẹp và tình người ấm áp biết bao. Nhưng quê hương giờ đây chỉ còn sống trong tâm tưởng của tác giả, khi xung quanh là 4 bức tường của lao tù. Những câu hỏi trăn trở lặp đi lặp lại nhiều lần phản ánh nỗi nhớ thương, khắc khoải và hoài vọng đau đáu khôn nguôi:
Câu cảm thán được sử dụng, như một tiếng lòng của tác giả, không thể để mãi trong lòng nên đành thốt lên: “ ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!” . nhớ đến những trưa thương nhớ, đồng quê nhớ những thứ thân thuộc, tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực của những người nông dân cơ cực,nhưng họ không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những dáng hình thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt tái hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Bóng dáng quen thuộc hiện ra, mẹ già thương nhớ, những hôm mưa nắng dãi dầm, những mảnh tình người thân thiết ấm nồng, những hồn thơ thắm thiết, như thắt chặt sự nỗi nhớ da diết với các hình ảnh quen thuộc. Nhưng tất cả chỉ còn trong tưởng tượng:
Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi
Dường như người chiến sĩ đang chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, trong dòng hồi ức miên man không dứt. Khiến người đọc cảm nhận rất rõ tâm trạng cô đơn, đau khổ của người tù lúc này, bất lực với tâm trạng của mình,chẳng thể thoát ra ngoài. Điều quan trọng sau tất cả nỗi nhớ đó là khi tác giả ngộ ra lí tưởng cách mạng:
Đó là những ngày tháng mà người thanh niên yêu nước băn khoăn trước bao ngã rẽ của cuộc đời, muốn thoát khỏi cuộc sống tù túng, ngột ngạt mà chưa tìm được lối ra bởi chưa được ánh sáng lí tưởng cộng sản soi đường. Tưởng nhớ lại những ngày tăm tối ấy là để cảm nhận rõ hơn niềm hạnh phúc lớn lao khi được “Mặt trời chân lí chói qua tim”.
Tố hữu nhớ lại những ngày đầu hăng say bước đi trên con đường cách mạng với biết bao kì vọng, lạc quan, để nhận thức rõ hơn cảnh ngộ đáng buồn của mình hiện tại. Nhà thơ bừng tỉnh sau những ngày dài đắm chìm trong nỗi nhớ thương dằng dặc, trở về với niềm say mê lí tưởng, với khao khát tự do và hành động.
Âm điệu thơ đang buồn bã đột nhiên chuyển sang vui vẻ, phấn chấn. Cảm xúc chuyển từ nỗi nhớ quê hương nhớ hình ảnh quen thuộc và rồi cô đúc lại thành:
Nỗi nhớ mênh mang được ví với hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày. Cánh chim đó, cánh chim của tự do,của tình yêu quê hương,cánh chim bay vút lên để đón nhận lí tưởng cao đẹp.
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu đầu, tác giả đã sử dụng kết cấu vòng, và bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng và lan tỏa:
Nhớ đồng là bài thơ góp phần diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản, đó là những cảm xúc hết sức chân thực, những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng cùng với đó là tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Từ chính những cảm xúc đó càng thôi thúc tác giả quyết tâm nung nấu ý chí để vượt lên khó khăn thách thức.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 1Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 2
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Năm mười sáu tuổi, ông được giác ngộ cách mạng và gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản. Năm mười tám tuổi, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Cuộc đời Tố Hữu gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tố Hữu đã chứng kiến, tham dự và đóng góp vào quá trình lâu dài ấy với tư cách của một chiến sĩ cách mạng kiên cường và một nhà thơ mang hồn thơ của thời đại. Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất. Ông xứng đáng là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Từ ấy (1937 – 1946) là tập thơ đầu tiên của Tố Hữu, đánh dấu thời điểm vô cùng quan trọng trong cuộc đời nhà thơ: được giác ngộ lí tưởng cộng sản và dứt khoát chọn cho mình con đường đi duy nhất đúng là con đường cách mạng giải phóng dân tộc ra khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.
Nếu như bài Tâm tư trong tù được khơi nguồn từ những âm thanh quen thuộc của cuộc sống bên ngoài, bài Khi con tu hú được hình thành từ tiếng chim tu Hú báo hiệu hè về thì ở bài Nhớ đồng, cảm hứng thơ lại được gợi lên từ tiếng hò quen thuộc của quê hương làm xao động tâm hồn thi sĩ.
Tố Hữu là người con của xứ Huế. Từ nhỏ, tâm hồn nhà thơ đã được nuôi dưỡng bằng mạch nguồn trong trẻo, ngọt ngào của những điệu ca, điệu hò nổi tiếng như Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy… Vì thế mà tiếng hò có rất nhiều ý nghĩa đối với người tù trẻ tuổi mang trái tim thi sĩ. Giọng hò đã khơi dậy trong tâm tưởng nhà thơ bao hình ảnh của cuộc sống mến thương trên quê hương yêu dấu.
Bài thơ Nhớ đồng phản ánh tâm trạng cô đơn, buồn nhớ của người tù trẻ tuổi bị tách biệt khỏi môi trường hoạt động sôi nổi, phải xa đồng bào, đồng chí thân thương. Ở Tâm tư trong tù, tâm trạng ấy được thể hiện một cách sôi nổi, mạnh mẽ ; còn ở Nhớ đồng thì lại thâm trầm, da diết.
Nhớ đồng là cách nói để cụ thể hóa đối tượng của nỗi nhớ. Tuy trong nỗi nhớ có hiện lên những hình ảnh quen thuộc của đồng ruộng, xóm làng, nhưng mở rộng ra đó chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ người thân, nhớ những ngày được sống trong tình cảm yêu thương, nồng ấm.
Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn. Ba đoạn đầu là ba nỗi nhớ được thể hiện sau câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại: Gì sâu bằng… Đoạn cuối gồm bốn khổ và hai câu đúc kết tâm sự của nhà thơ trong hiện tại.
Nỗi nhớ trải dài suốt bài thơ được tác giả thể hiện bằng nhiều biện pháp nghệ thuật khác nhau. Trước hết, những câu hỏi tu từ được sử dụng làm điệp khúc: Gì sâu bằng những trưa thương nhớ, Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh. Đây là những câu thơ mang sắc thái nghệ thuật hiện đại của Thơ mới đã thể hiện nỗi nhớ da diết, khắc khoải và tâm trạng cô đơn tột cùng của người thanh niên giữa chốn ngục tù đế quốc.
Câu thơ mở đầu mỗi khổ thơ được lặp lại nhiều lần nhấn mạnh mức độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Gì sâu bằng là cấu trúc có ý khẳng định không gì sâu xa hơn, mạnh mẽ hơn; những trưa thương nhớ là những ngày nhà thơ phải sống trong xà lim biệt giam.
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!
Đâu gió cồn thơm…,
Đâu ruộng tre mát…,
Đâu từng ô mạ…,
Đâu những nương khoai…,
Đâu những đường con…,
Đâu nhà tranh thấp… ?
Tất cả những gì gần gũi, thân quen của đời sống đều được Tố Hữu trân trọng miêu tả trong thơ. Tác giả cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời thường nhưng xiết bao gợi cảm đối với bản thân trong chốn lao tù. Giờ đây, nhà thơ chi có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy khung cảnh quê hương trong tưởng tượng bằng trái tim chất chứa nhớ thương.
Giọng điệu thơ da diết, thổn thức thể hiện nỗi nhớ khôn cùng đang cuộn xoáy, trào dâng trong lòng thi sĩ. cảm xúc dâng trào thốt lên thành lời thơ chân thành, xúc động:
Những người nông dân hiền như đất, quanh năm dãi nắng dầm sương, vất vả sớm trưa được nhà thơ nhắc đến với tình thương mến dạt dào. Cuộc sống cơ cực không thể làm mất đi vẻ đẹp khỏe khoắn, đáng yêu trong hình dáng và tâm hồn họ. Những hình dáng thân thương, bình dị với vẻ lam lũ cực nhọc lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của nhà thơ:
Đâu những chiều sương phủ bãi đồng
Lúa mềm xao xác ở ven sông
Vẳng lên trong tiếng xe lúa nước
Hình ảnh mẹ già và những người thân đã khuất cũng từ từ hiện lên trong dòng hồi ức khiến nỗi nhớ càng thêm da diết và trái tim thổn thức vô hạn, vô hồi:
Đâu những hồn thân tự thuở xưa
Những hồn quen dãi gió dầm mưa
Sau nỗi nhớ đồng không thể nguôi ngoai, nhà thơ nhớ về những ngày đầu tiên được giác ngộ lí tưởng cách mạng. Mạch cảm xúc phát triển rất đúng với logic tâm lí. Hai giai đoạn trong chặng đường tìm kiếm chân lí đã được nhà thơ khái quát trong hai khổ thơ:
Cho tới chừ đây, tới chừ đây
Tôi mơ qua cửa khám bao ngày
Hình ảnh so sánh: Như cánh chim buồn nhớ gió mây đã thể hiện thần tình nỗi nhớ đồng, thực chất là nỗi nhớ quê hương, đồng bào, đồng chí, đồng thời là khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng đang chịu cảnh tù đày.
Hai câu kết là sự lặp lại của hai câu thơ đầu, tạo nên kết cấu vòng tròn. Bài thơ khép lại nhưng cảm xúc thơ vẫn tiếp tục mở rộng như nhiều vòng sóng đồng tâm, mỗi lúc một lan xa, tỏa rộng không giới hạn;
Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi nhiệt huyết. Đó cũng là động lực thúc đẩy người chiến sĩ – thi sĩ dấn thân vì sự nghiệp cách mạng giải phóng quê hương đất nước.
Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu số 1
Bài thơ là tiếng lòng da diết đối với cuộc sống bên ngoài của người chiến sĩ cộng sản. Nỗi nhớ ấy thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân đất nước, yêu cuộc sống của chính mình.
Đăng bởi: Hoàng Nguyên Lâm
Từ khoá: 10 Bài văn phân tích bài thơ “Nhớ đồng” của Tố Hữu hay nhất
Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt Kts – Bắc Ninh
Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS
5
/ 5
(3 đánh giá)
Trung tâm tiếng Hàn – Bắc Ninh
Địa chỉ: khu 10, Bắc Ninh
Điện thoại:098 108 84 18
Giờ hoạt động:
Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy, Chủ Nhật: Mở cửa cả ngày
Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS là một trong những Trung tâm tiếng Hàn tại Bắc Ninh, có địa chỉ chính xác tại khu 10, Bắc Ninh.
Hotline chính thức của nhà trường là: 098 108 84 18. Đây là hotline tiếp nhận mọi phản ánh, cũng như tư vấn và giải đáp mọi câu hỏi thắc mắc của quý phụ huynh.
Ngoài ra đây là các trang mạng xã hội của nhà trường giúp bạn biết thêm các thông tin hoạt động mới nhất của trường.
Trung tâm tiếng Hàn ở Bắc Ninh – Facebook
Trung tâm tiếng Hàn ở Bắc Ninh. 15,399 likes · 42 talking about this.
Thứ Hai, Thứ Ba, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu, Thứ Bảy, Chủ Nhật: Mở cửa cả ngày
Thành phố Bắc Ninh, Huyện Tiên Du và Huyện Yên Phong là 3 quận huyện gần nhất đến với Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo khoảng cách khác của quận huyện thuộc Bắc Ninh. Lưu ý thời gian đi dự kiến có thể sẽ thay đổi tuỳ vào tình hình giao thông.
Đi từ trung tâm Khoảng cách Xe máy Xe ô tô
Thành Phố Bắc Ninh 1.21 km 8 phút 7 phút
Huyện Gia Bình 16.92 km 41 phút 34 phút
Huyện Lương Tài 24.16 km 58 phút 48 phút
Huyện Quế Võ 12.29 km 29 phút 25 phút
Huyện Thuận Thành 15.68 km 38 phút 31 phút
Huyện Tiên Du 7.84 km 24 phút 21 phút
Thành Phố Từ Sơn 13.17 km 32 phút 26 phút
Huyện Yên Phong 12.02 km 29 phút 24 phút
Để đặt lịch hẹn hoặc liên hệ với Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS bạn có thể gọi trực tiếp vào hotline của trường, đến trực tiếp địa chỉ hoặc truy cập vào website để biết thêm chi tiết.
Thông tin liên hệ:
Địa chỉ: khu 10, Bắc Ninh
Điện thoại: 098 108 84 18
Trung Tâm Ngoại Ngữ AKI
Khoảng cách: 0.74 km
4.8
(4)
Trung tâm tiếng Hàn
124 Đ. Bình Than, Đại Phúc, Bắc Ninh
Trung tâm tiếng Hàn
Khoảng cách: 1.08 km
0
(0)
Trung tâm tiếng Hàn
383b Nguyễn Trãi, Võ Cường, Bắc Ninh
Trung tâm tiếng Hàn
Khoảng cách: 1.79 km
0
(0)
Trung tâm tiếng Hàn
151 Nguyễn Văn Cừ, Võ Cường, Bắc Ninh
Hệ Thống Giáo Dục Quốc Tế AKI
Khoảng cách: 0.74 km
5
(3)
Trung tâm tiếng Hàn
124 Đ. Bình Than, Đại Phúc, Bắc Ninh
Trung tâm tiếng Hàn Atlantic
Khoảng cách: 11.29 km
4
(1)
Trung tâm tiếng Hàn
Lô số 24, Từ Sơn, Bắc Ninh
Hotline chính thức của Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS tại Bắc Ninh là 098 108 84 18. Quý phụ huynh có thể liên hệ hotline này để được giải đáp mọi thắc mắc một cách nhanh nhất. Nhà trường luôn hoan nghênh và trân trọng những ý kiến đánh giá, góp ý của quý phụ huynh để từng bước hoàn thiện và phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và thiết lập mối quan hệ thân thiết giữa nhà trường và phụ huynh.
Trong quá trình hoạt động, Trung Tâm Ngoại Ngữ Hàn Việt KTS đã được các đơn vị chuyên môn, báo chí cũng như các trang mạng đánh giá uy tín tại:
Đừng Bỏ Lỡ Top 9 Trung Tâm Tiếng Hàn Bắc Ninh Uy Tín Nhất
Hiện nay, có rất nhiều trung tâm hỗ trợ giảng dạy tiếng Hàn bên ngoài.
Top 9 trung tâm dạy tiếng Hàn tốt nhất tại Bắc Ninh – bhasa.net
Top 9 trung tâm dạy tiếng Hàn tốt nhất tại Bắc Ninh bao gồm: Trung Tâm Ngoại Ngữ Du Học Hàn Việt KTS,Trung Tâm Ngoại Ngữ AKI Bắc Ninh,Trung tâm Atlantic,Trung tâm ngoại ngữ Full House,Trung tâm ngoại ngữ …
Trung Tâm Ngoại Ngữ Du Học Hàn Việt KTS với đội ngũ cán bộ trẻ, đầy sáng tạo và năng động, chịu khó và ham học hỏi cùng sự …
Nét Thơ Trong Làng Du Lịch Việt Nam
Trong cuộc sống hàng ngày, chợ là điểm đến không thể thiếu đối với chị em phụ nữ nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Từ ngày xưa, chợ đã được hình thành ở khắp mọi miền đất nước, với nhiều hình thức họp chợ khác nhau. Ngày nay, các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện lợi xuất hiện khá nhiều, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của người dân; tuy nhiên, chợ vẫn là nơi rất quan trọng, cung cấp thực phẩm cho hầu hết mọi gia đình ở Việt Nam. Bên cạnh những vật chất cần thiết cho cuộc sống, chợ còn đem đến những giá trị tinh thần cho đất Việt – mang sắc thái văn hóa đầy sống động của đất nước.
Chợ, nét thơ trong làng du lịch Việt Nam – Ảnh: Nguyen Minh Photo
Ngày nay, chợ xuất hiện với nhiều hình thức theo văn hóa của mỗi vùng miền, như chợ phiên ở vùng núi lâu lâu mới họp chợ một lần, chợ nổi lênh đênh ở vùng sông nước miền Tây, hay những phiên chợ ngắn trong ngày như chợ mai, chợ chiều, chợ đêm… Đến với chợ, du khách sẽ được hòa vào dòng người nhộn nhịp, sôi nổi với tiếng rao hàng, tiếng cười vui, lời chào, lời hỏi thăm… không những thế, các mặt hàng ở chợ luôn là những mặt hàng tươi ngon, đa dạng, cung cấp đầy đủ dưỡng chất cho những gia đình Việt Nam.
Chợ Phiên vùng núi – Ảnh: Tui Tí
Tần suất xuất hiện của chợ khá dày đặc, chỉ cách vài con đường chúng ta cũng có thể dễ dàng tìm được nhiều chợ khác nhau. Tuy nhiên, mỗi vùng đất có một nét riêng làm nên một giá trị đặc trưng cho chợ mình, có thể kể đến những ngôi chợ thường ghi lại dấu ấn đặc biệt trong lòng du khách khi ghé đến Việt Nam như: chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Đông Ba (Huế), chợ Bến Thành (TPHCM), chợ Hàn (Đà Nẵng), chợ Đầm (Nha Trang), chợ phiên vùng cao Tây Bắc, chợ nổi miền Tây,…
1. CHỢ ĐỒNG XUÂN – HÀ NỘIVẻ đẹp thanh bình của chợ Đồng Xuân – Ảnh: Đinh Việt Phương
Chợ Đồng Xuân là 1 trong những chợ lớn nhất tại Hà Nội. Chợ nằm ở khu phố cổ, phía Tây là phố Đồng Xuân, phía Bắc là phố Hàng Khoai, phía Nam là phố Cầu Đông và phía Đông là ngõ chợ Đồng Xuân, gần ga đầu cầu Long Biên với lịch sử tồn tại hàng trăm năm từ thời phong kiến nhà Nguyễn.
Chợ Đồng Xuân ngày xưa – Ảnh: tata
Chợ được thành lập với quy mô khá nhỏ ở cửa chính đông từ thời nhà Nguyễn, sau được chính quyền Pháp xây dựng theo kiến trúc Pháp: tạo thành năm vòm cửa và năm cầu dài 52m, cao 19m và gộp lại từ hai chợ nhỏ là chợ Bạch Mã và chợ Cầu Đông nằm ven sông Tô ở Việt Nam.
Kiến trúc nhà vòm của chợ đẹp lung linh với góc ảnh 3D – Ảnh: Đinh Việt Phương
Chợ Đồng Xuân với địa hình khá thuận lợi, là nơi giao thương hàng hóa lớn nhất miền Bắc Việt Nam thời bấy giờ, là một trong những đầu mối bán buôn của cả nước. Chợ bán nhiều mặt hàng đa dạng, từ bánh kẹo, hải sản tươi – khô, trà rượu đến những quần áo, giày dép, túi xách và cả các mặt hàng gia dụng phù hợp với nhiều đối tượng, sở thích khác nhau mà các chợ khác ở Hà thành khó có thể tìm được.
Hoạt động mua bán ở chợ Đồng Xuân qua góc ảnh 3D – Ảnh: Đinh Việt Phương
Và hơn hết, giá thành ở chợ này cũng chính là điểm mạnh mà nhiều du khách thường ghé để mua quà cho người thân, bạn bè mỗi lần đến Hà Nội, xung quanh chợ lúc nào cũng đông đúc, nhộn nhịp.
Ngày nay, chợ Đồng Xuân được xây dựng lại với quy mô lớn gồm 3 tầng hiện đại, rộng rãi, khang trang nhưng lối kiến trúc cổ kính cũ vẫn được lưu giữ lại.
Chợ Đồng Xuân khang trang ngày nay – Ảnh: J.Mario Franco
Hơn nữa, vào những năm Việt Nam bị cai trị bởi người Pháp, người Mỹ, tại chợ Đồng Xuân này đã có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất. Chính vì thế, chợ Đồng Xuân không chỉ mang tính thương mại mà còn là một địa danh lịch sử của Việt Nam ta.
Hoạt động mua bán sầm uất tại chợ Đồng Xuân ngày nay – Ảnh: Vietnamtourism
2. CHỢ ĐÔNG BA – THỪA THIÊN-HUẾChợ Đông Ba nằm dọc theo bờ sông Hương, là nơi mà hầu hết những người con của xứ Huế đều tự hào với bề dày lịch sử. Chợ Đông Ba nằm bên đường Trần Hưng Đạo, chỉ cách cầu Trường Tiền khoảng 100m. Chợ Đông Ba là trung tâm thương mại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên – Huế và các khu vực lân cận.
Cổng chính Chợ Đông Ba – Ảnh: Sưu tầm
Chợ Đông Ba có từ thời vua Gia Long ở Việt Nam, nhưng đã bị thực dân Pháp tàn phá vào năm 1885. Sau đó được vua Đồng Khánh cho xây dựng lại và vua Thành Thái dời chợ về vị trí như hiện nay.
Chợ Đông Ba xưa – Ảnh: Sưu tầm
Góc chợ Đông Ba đã vãn khách – Ảnh: Maché
Ngày nay, tọa lạc trên diện tích khoảng 22.742m2, hơn 2700 lô hàng lớn nhỏ của 99% là nữ tiểu thương, kinh doanh nhiều mặt hàng đa dạng, từ cao cấp đến bình dân. Hơn hết, mọi người đều ngỡ ngàng, bị thu hút bởi nền ẩm thực truyền thống của xứ Huế, các món ăn đặc sắc, nổi tiếng: bún bò, bánh lọc, cơm hến, các loại chè… đều có mặt ở chợ Đông Ba, Việt Nam.
Chợ Đông Ba có nhiều mặt hàng đa dạng, phong phú ngày nay – Ảnh: Sưu tầm
Chợ Đông Ba đã đi vào thơ ca, nhạc, họa của những người yêu mảnh đất cố đô. Xứ Huế có sông Hương núi Ngự, non núi hữu tình mang đến cảm giác thanh bình giữa chốn thiên nhiên vẫn không thể thiếu sự nhộn nhịp, tấp nập của chợ Đông Ba.
Một tiểu thương đã dành tặng chợ Đông Ba những dòng thơ thể hiện tình cảm sắc son như sau:
Xin một lần đến Huế quê tôi
Thăm cầu Tràng Tiền lộng gió
Thăm chợ Đông Ba ân tình.
Thăm cô hàng nón xinh xinh
Bài thơ duyên dáng che mình với ta
TГґm chua Д‘бє·c sбєЈn Д‘бєm Д‘Г
Cau tươi Nam Phổ mặn mà duyên ai
Sen hồ Tâm Tịnh ban mai
“Thiên Hương” mè xửng dẻo say lòng người
Ghé qua hàng vải tươi cười
Lụa là gấm vóc thắm tươi sắc màu
Nao lòng chẳng dám đi mau
Bởi cô cam quýt mắt nâu ngọt ngào
Rộn ràng hàng guốc xôn xao
Guốc khua mấy nhịp đi vào lòng anh
Qua hàng cơm hến chẳng đành
Bún bò, bánh lọc, chè xanh ấm lòng
Kim hoàn điện máy rất đông
Phồn hoa đô thị bóng hồng thiết tha
Ơi khách đường xa, khách đường xa
Dừng chân ghé lại Đông Ba chợ mình
Xin một lần đến Huế quê tôi
Thăm cầu Trường Tiền lộng gió
Thăm chợ Đông Ba ân tình.
Vẻ đẹp đôn hậu của những người phụ nữ Việt Nam ở chợ Đông Ba – Ảnh: Tran Thai Hoa
Mời bạn xem tiếp:
Chợ – Nét Thơ Trong Làng Du Lịch Việt Nam – Phần 2
Chợ – Nét Thơ Trong Làng Du Lịch Việt Nam – Phần 3
Chợ – Nét Thơ Trong Làng Du Lịch Việt Nam – Phần 4
Nội dung bài viết thuộc bản quyền của Mytour (Không bao gồm hình ảnh). Mọi sao chép cần ghi rõ nguồn, tên tác giả, nhiếp ảnh gia cùng với liên kết về nội dung tương ứng tại Mytour..
Đăng bởi: Híu Phạm
Từ khoá: Chợ – Nét Thơ Trong Làng Du Lịch Việt Nam – Phần 1
Phiếu Bài Tập Cuối Tuần Tiếng Việt 2 Sách Cánh Diều Phiếu Bài Tập Tiếng Việt Lớp 2 Năm 2023 – 2024 (Cả Năm)
Họ và tên:……………………………
Lớp: 2…
BÀI TẬP CUỐI TUẦN – TUẦN 1
Thứ…… ngày … tháng… năm 20…
Bài 1
Đọc bài sau:
Hòn đá nhẵn
Hồi học lớp một, tôi hay bị ba mẹ mắng chỉ vì thích chơi không chịu học, không chịu vào “khuôn phép”. “Tại sao người lớn lại cứ ép trẻ con phải làm những việc mà chúng không thích? Ba mẹ chắc không yêu mình nên mới chẳng cho mình chơi.” Tôi nghĩ thế nên rất buồn và giận ba mẹ.
Một lần, bị ba mắng tôi đã chạy đến nhà bà nội. Biết chuyện của tôi, bà không nói gì mà dẫ tôi đi dạo bên bờ suối. Tôi bắt đầu tìm những viên đá, chọn kĩ lưỡng, tìm được một viên cuội tuyệt đẹp, tròn, nhẵn bóng như một viên bi.
– Nó tuyệt đẹp, phải không nội?
– Ừ, đẹp thật. Sao con không nhặt đá ở bờ suối mà lại mất công tìm dưới nước?
– Vì đá trên bờ đều thô ráp.
– Con có biết vì sao viên cuội ở dòng suối lại nhẵn được như vậy không?
Mừng rỡ vì biết rõ câu trả lời, tôi nói ngay:
– Nhờ nước ạ!
– Đúng, nước chảy đá mòn. Nhờ có nước và nhờ những viên đá cọ xát vào nhau cho đến khi những chỗ gồ ghề, thô ráp biến mất. Lúc này viên đá mới đẹp. Con người cũng vậy. Hãy nghĩ ba mẹ con giống như dòng nước. Một ngày nào đó khi con nên người, con sẽ hiểu nhờ đâu con được như thế.
Và đó là tất cả những gì quan trọng nhất bà nội đã nói với tôi trong buổi chiều đáng nhớ ấy.
(Phỏng theo Oan-cơ Mít-đơ)
Dựa vào nội dung bài đọc hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
1. Khi bị ba mẹ mắng vì ham chơi không chịu học, bạn nhỏ cảm thấy như thế nào?
a. Bạn cảm thấy rất hối hận.
b. Bạn cảm thấy ba mẹ vô lí nên bất bình với ba mẹ và buồn.
c. Bạn hiểu ba mẹ nghiêm khắc như vậy là tốt cho bạn.
2. Biết chuyện của bạn nhỏ, bà nội bạn đã làm gì?
a. Bà giảng giải, chỉ ra những sai trái của bạn.
b. Bà khuyên bạn về xin lỗi ba mẹ.
c. Bà không nói gì mà cùng bạn nhỏ đi dạo chơi.
3. Bạn nhỏ tìm nhặt những viên đá như thế nào?
a. Bạn tìm những viên đá tròn, nhẵn bóng.
b. Bạn tìm những viên đá to.
c. Bạn tìm những viên đá gồ ghề, thô ráp.
4. Bà nội giải thích vì sao những viên đá dưới nước lại đẹp?
a. Vì những viên đá đó được nước bảo vệ không bị bụi bẩn.
b. Vì dòng nước chảy và sự cọ xát của các viên đá với nhau đã bào mòn, làm mất sự thô ráp của chúng.
c. Vì những viên đá nằm sâu dưới dòng suối vốn đẹp nhưng không ai phát hiện ra.
5. Gạch bỏ từ không thuộc nhóm trong mỗi dãy từ sau:
a. Từ chỉ người: ba mẹ, người lớn, trẻ con, khuôn phép, bà nội, con người.
b. Từ chỉ hoạt động của học sinh: nghe giảng, học bài, đi học, ra chơi, tắm biển.
c. Từ chỉ nết tốt của người học sinh: chăm chỉ, chuyên cần, lễ phép, ham chơi, thật thà.
6. Khoanh vào từ viết đúng chính tả:
a. quyển nịch/chắc nịch
b. làng tiên/xóm làng
c. cây bàn/cái bàn
d. cái thang/hòn thang
Bài 2: Xếp các từ ngữ sau thành câu và ghi lại:
a. các bạn nam/trên sân trường/đá bóng
……………………………………………………………………………………………………………………..
b. cả lớp/cô giáo kể chuyện/chăm chú nghe
……………………………………………………………………………………………………………………..
Bài 3: Viết tiếp vào chỗ trống để giới thiệu với các bạn trong lớp về mình:
Mình tên là ………………………………………… Nhà mình ở ……………………………..
…………………………………….. Mình rất thích ………………………………………………………..
……………………………………………………………………………………………………………………..
Đáp án phiếu bài tập cuối tuần môn Tiếng Việt 2 – Tuần 1
Bài 1:
Câu
1
2
3
4
5
6
Đáp án
b
c
a
b
a. khuôn phép
b. tắm biển
c. ham chơi
a. chắc nịch; b. xóm làng
c. cái bàng; d. cái thang
Bài 2: Gợi ý
Các bạn nam đá bóng trên sân trường.
Cả lớp lắng nghe cô giáo kể chuyện.
Bài 3: Gợi ý
Mình tên là Phan Mỹ An. Nhà mình ở phố Kim Mã, gần chợ Ngọc Hà. Mình rất thích đọc truyện, xem phim và ăn gà rán…
TẬP ĐỌC – KỂ CHUYỆN: CÓ CÔNG MÀI SẮT, CÓ NGÀY NÊN KIM – TUẦN 1
Phần 1: Dựa vào nội dung câu chuyện em hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng.
1. Lúc đầu, cậu bé học hành thế nào? 3. Ban đầu, cậu bé trong bài có tính cách như thế nào?
a. Học rất giỏi a. Làm việc gì cũng hết mình
b. Học rất dở b. Làm việc gì cũng cẩn thận
c. Rất chăm học c. Làm việc gì cũng mau chán
2. Cậu bé thấy bà cụ đang làm gì? 4. Câu chuyện này khuyên em điều gì?
a. Bà cụ đang học bài a. Không cần học hỏi cũng có thể thành tài
b. Bà cụ đang đi chợ b. Có tính nhẫn nại và kiên trì học hỏi thì có ngày cũng thành tài
c. Bà cụ đang mài thỏi sắt c. Chỉ cần đọc vài dòng đã ngáp ngắn ngáp dài là có thể học giỏi
5. Từ “nên” trong câu tục ngữ “Có công mài sắt, có ngày nên kim” có nghĩa là gì?
a, Thành công
b. Hậu quả
c. Lí do
d. Thua lỗ
Bài 1
Đọc bài sau:
Bé và chim chích bông
Buổi sáng, Bé dậy sớm, ngồi học bài. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt. Nhưng phải cố gắng lắm mới có được thói quen ấy. Rét ghê. Thế mà Bé vùng dậy, chui ra khỏi cái chăn ấm. Bé ngồi học bài.
Rồi trời ấm dần. Phải rồi, khi chim sâu ra ăn đàn, thế là trời nắng ấm.
Chim sâu nhiều thế. Nó bay tràn ra vườn cải. Cả đàn ùa xuống, líu ríu trên những luống rau trồng muộn.
Bé hỏi:
– Chích bông ơi, chích bông làm gì thế?
Chim trả lời:
– Chúng em bắt sâu.
Chim hỏi lại Bé:
– Chị Bé làm gì thế?
Bé ngẩn ra rồi nói:
– À… Bé học bài.
Dựa vào nội dung bài đọc hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
Câu 1. Bé dậy sớm để làm gì?
a. Bé dậy sớm để học bài.
b. Bé dậy sớm để tập thể dục.
c. Bé dậy sớm để chăm sóc vườn rau.
Câu 2. Câu nào nêu sự quyết tâm, cố gắng dậy sớm của Bé?
a. Dậy sớm học bài là một thói quen tốt.
b. Bé vùng dậy, chui ra khỏi cái chăn ấm.
c. Bé từ từ ngồi dậy, chui ra khỏi cái chăn ấm.
Câu 3. Chim sâu xuống vườn cải để làm gì?
a. Chim sâu đến vườn cải để dạo chơi.
b. Chim sâu đến vườn cải để bắt sâu.
c. Chim sâu đến vườn cải để trò chuyện với Bé.
Câu 4. Theo em trong bài Bé và chim chích bông, ai đáng khen? Vì sao đáng khen?
Câu 5. Sắp xếp các từ trong mỗi dòng sau thành hai câu khác nhau:
a. Bé / quý / chích bông / rất.
…………………………………………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………………………………..
b. chăm chỉ / đều / và / chích bông / Bé.
…………………………………………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………………………………..
Câu 6. Ghép từng tiếng ở cột trái với những tiếng thích hợp ở cột phải để tạo thành từ:
Bài 2. Em đặt dấu chấm hoặc dấu chấm hỏi vào cuối mỗi câu sau:
a. Cô bé vội vã ra đi c
b. Bỗng cô bé gặp một cụ già râu tóc bạc phơ c
c. Cháu đi đâu mà vội thế c
d. Ta có thể giúp đỡ gì cho cháu c
e. Mẹ cháu đã khỏi bệnh rồi c
Bài 3. Em đã được xem rất nhiều phim hoạt hình. Hãy đóng vai một nhân vật hoạt hình mà em thích và tự giới thiệu về mình với các bạn nhỏ
Đáp án phiếu bài tập cuối tuần môn Tiếng Việt 2 – Tuần 2
Bài 1:
1. a
2. b
3. b
4. Tự trả lời
5. a. Bé rất quý chích bông.
Chích bông rất quý Bé.
b. Bé và chích bông đều chăm chỉ.
Chích bông và Bé đều chăm chỉ.
6. xong chuyện, xong xuôi, song sắt, song ca
Bài 2: a: (.) b. (.) c. (?)
d. (?) e. (.)
Bài 3: Gợi ý:
Tớ là chú mèo máy thông minh Đô-rê-mon. Tớ xuất hiện trong bộ truyện tranh và phim hoạt hình mang tên chính tên của tớ. Nơi tớ sinh ra chính là đất nước mặt trời mọc Nhật Bản. Món ăn tớ thích nhất là bánh rán và chuột là con vật tớ ghét nhất!…
TẬP ĐỌC – KỂ CHUYỆN: PHẦN THƯỞNG – TUẦN 2
Phần 1: Dựa vào nội dung câu chuyện em hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng.
1. Bạn Na trong bài là cô bé như thế nào?
a. Ích kỉ
b. Học giỏi
c. Tốt bụng
d. Chăm chỉ
2. Hãy chỉ ra trong bài những việc làm tốt của bạn Na?
a. Đưa bạn đi học
b. Chép bài giúp bạn
c. Kèm các bạn học kém
d. cho Minh nửa cục tẩy
3. Tại sao bạn Na lại buồn?
a. Vì không được các bạn cảm ơn
b. Vì các bạn không giúp đỡ em
c. Vì chưa giúp được nhiều bạn
d. Vì em chưa học giỏi
4. Biểu hiện của Na như thế nào khi các bạn bàn tán về điểm thi và phần thưởng?
a. Vui vì đã giúp đỡ các bạn học giỏi
b. Tự hào vì mình cũng có thưởng
c. Cùng bàn tán sôi nổi với các bạn
d. Chỉ lặng yên nghe các bạn
5. Vì sao Na lại được nhận phần thưởng đặc biệt?
a. Vì Na tuy học chưa giỏi nhưng có tấm lòng thật đáng quý.
b. Vì Na đã xin với cô cho mình được nhận phần thưởng đặc biệt.
c. Vì Na lười học lại hay trốn học đi chơi.
d. Vì Na vừa học giỏi, nhà lại có điều kiện.
Bài 1
Đọc bài sau:
Xe lu và xe ca
Xe lu và xe ca là đôi bạn thân. Xe lu và xe ca cùng đi trên đường với nhau. Thấy xe lu đi chậm, xe ca chế giễu:
– Cậu đi chậm như rùa ấy! Xem tớ đây này!
Nói rồi, xe ca phóng vụt lên, bỏ xe lu ở tít đằng sau. Xe ca tưởng mình thế là giỏi lắm.
Tới một quãng đường bị hỏng, xe ca phải đỗ lại vì lầy lội quá. Bấy giờ xe lu mới tiến lên. Khi đám đá hộc và đá cuội ngổn ngang đổ xuống, xe lu liền lăn qua lăn lại cho phẳng lì. Nhờ vậy mà xe ca mới tiếp tục lên đường.
Từ đấy, xe ca không chế giễu xe lu nữa. Xe ca đã hiểu rằng: công việc của xe lu là như vậy.
(Phong Thu)
Dựa vào nội dung bài đọc hãy khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng:
1. Thấy xe lu đi chậm, xe ca đã làm gì?
2. Tới quãng đường bị hỏng, chuyện gì đã xảy ra với xe ca?
3. Nhờ đâu xe ca có thể tiếp tục lên đường?
4. Cuối cùng xe ca đã hiểu ra điều gì?
5. Em hãy kể ra một vài điểm mạnh của bản thân?
…………………………………………………………………………………………………………………….. ……………………………………………………………………………………………………………………..
6. “Xe lu và xe ca là đôi bạn thân. Xe lu và xe ca cùng đi trên đường với nhau.”, hãy tìm các từ chỉ sự vật trong hai câu văn trên?
……………………………………………………………………………………………………………………..
7. Câu nào thuộc kiểu câu Ai là gì?
Bài 2: Tìm từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để có câu theo mẫu Ai là gì?
a. Lan là………………………………………………………………………………………………………….
b. Bút chì, thước kẻ là……………………………………………………………………………………….
c. …………………………………………….. là nơi em sinh ra.
d. ……………………………… là người mẹ thứ hai của em.
Bài 3: Viết câu kiểu Ai là gì? có cùng nghĩa với câu sau:
Câu chuyện Xe lu và xe ca rất thú vị.
……………………………………………………………………………………………………………………..
Bài 4: Điền vào chỗ trống:
a. r/d/gi?
– cái ……ổ; ……á sách; cái …….á; …….ừng núi; xe ……ừng lại, …..á đỗ
b. ngh/ ng?
– …..iên cứu, ….ẹn ngào, …ao ngán, ……oằn ngoèo, ……ịch ngợm, …..iêm trang.
a. Đôi mắt màu đen được viền một đường tròn đỏ.
b. Chú chim bồ câu chỉ to bằng cái bắp chuối bé.
c. Bộ lông của chú màu xám pha xanh lục.
d. Hai cánh úp dài theo thân và che kín hai bên lườn.
Các câu được sắp xếp theo thứ tự:………………………………………………………………………
ĐÁP ÁN – TUẦN 3
Bài 1:
Câu hỏi
1
2
3
4
6
7
Đáp án
b
b
a
c
xe lu, xe ca, đôi bạn, đường
a
Bài 2:
a. Lan là người bạn thân nhất của em.
b. Bút chì, thước kẻ là những đồ vật cùng em tới trường.
c. Hà Nội là nơi em sinh ra.
d. Cô giáo là người mẹ thứ hai của em.
Bài 3:Gợi ý: Xe lu và xe ca là câu chuyện rất thú vị.
Bài 4:
– cái rổ; giá sách; cái rá; rừng núi; xe dừng lại, giá đỗ
– nghiên cứu, nghẹn ngào, ngao ngán, ngoằn ngoèo, nghịch ngợm, nghiêm trang.
Bài 5: Thứ tự: b-a-c-d
…
Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Thơ Việt Bắc In Trong Tập Việt Bắc, Tố Hữu trên website Jizc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!